Chọn con đường hẹp thay vì đường rộng: Quyết định tuyệt vời nhất cuộc đời tôi

Allyssa Bethelle Dunn, New Windsor, NY, Mỹ

9,070 lượt xem

Tôi lớn lên ở Wisconsin, nơi người dân vùng Trung Tây nước Mỹ thường sống theo lối truyền thống. Họ sống rất coi trọng gia đình và hiếm khi rời khỏi quê hương. Vì vậy, việc tôi rời khỏi nhà để theo đuổi ước mơ và sống tự lập ở thành phố lớn như New York đã trở thành cú sốc lớn đối với gia đình tôi.

Ước mơ của tôi là được biểu diễn trên sân khấu Broadway. Tôi muốn bắt đầu bước chân vào thế giới nghệ thuật bằng diễn xuất ở Manhattan, New York, nơi diễn ra những vở kịch và nhạc kịch mang tầm thế giới và cuối cùng trở thành đạo diễn sân khấu. Vì thế, tôi đã theo học chuyên ngành nghệ thuật sân khấu tổng hợp, không chỉ học về diễn xuất, đạo diễn mà cả thiết kế trang phục và hóa trang. Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi tiếp tục nộp hồ sơ học cao học tại nhiều trường, và cuối cùng tôi đã tiếp tục học ở New York.

Giữa vô vàn kế hoạch và lựa chọn, Đấng đã dẫn dắt tôi đến New York chính là Đức Chúa Trời. Tại đó, tôi đã bước vào “đường hẹp” thay vì “đường rộng (Broadway)” mà phải mất rất nhiều thời gian sau, tôi mới nhận ra rằng phước lành và hạnh phúc thật sự mà con người cần tìm trong đời, chính là ở trên con đường ấy.

Không lâu sau khi đến New York, lúc tôi vẫn còn tràn đầy ước mơ và phấn khích thì một ngày nọ, tôi hẹn vài người bạn mới quen đi xem kịch ở công viên. Nhưng khi ra khỏi ga tàu điện ngầm, trước mắt tôi chỉ toàn những tòa nhà san sát, chẳng thấy công viên đâu cả. Chính lúc đó, tôi gặp những người thuộc Hội Thánh của Đức Chúa Trời cho tôi biết về Mẹ trên trời. Song vì đang trễ hẹn, tôi chỉ nghĩ đến việc tìm đường thật nhanh nên đã không để vào tai những lời họ nói.

Dù sinh ra trong gia đình Cơ Đốc giáo, nhưng thật ra, tôi lại có cảm giác chống đối với lời Kinh Thánh. Từ nhỏ, tôi đã sớm cảm thấy nghi ngờ về đức tin khi chứng kiến nhiều người trong hội thánh, bên ngoài thì trông hiền lành nhưng bên trong lại giả dối. Khi tôi nói sẽ không đến hội thánh nữa, mẹ tôi đã tôn trọng quyết định của tôi.

Khu vực tôi sống phần lớn là Cơ Đốc nhân, nên việc tin Đức Chúa Trời và đi hội thánh là điều rất tự nhiên. Dù không đi hội thánh, tôi vẫn tham gia các buổi nhóm học Kinh Thánh với bạn bè thuộc nhiều giáo phái khác nhau. Một hôm, một người bạn đã chỉ cho tôi thấy sự khác biệt giữa bản Kinh Thánh mà cô đọc với bản mà giáo phái gia đình tôi theo đã đọc. Tôi bắt đầu bối rối, không biết đâu mới là đúng. Thế rồi tôi tự hỏi “Kinh Thánh, cuốn sách đã truyền qua tay biết bao người suốt hàng nghìn năm, có thật sự là lời của Đức Chúa Trời không? Trong quá trình dịch hay biên tập, liệu có bị truyền tải sai lệch không?” Những nghi ngờ ấy dần chuyển thành sự mất lòng tin vào Kinh Thánh. Tôi thậm chí còn có suy nghĩ châm biếm rằng nếu muốn tìm lẽ thật thì chỉ có cách học tiếng Hêbơrơ để tự mình dịch Kinh Thánh. Thêm vào đó, môi trường nơi tôi học rất phóng khoáng và tự do, khiến tôi càng xa rời Kinh Thánh và tín ngưỡng Cơ Đốc giáo của mình.

Vì thế nên khi lần đầu nghe nói về Mẹ trên trời, tôi đã thấy thú vị, nhưng chỉ dừng lại ở đó thôi. Ngược lại, khi nghe rằng sự tồn tại ấy “được ghi chép trong Kinh Thánh” và đang được một “Hội Thánh” rao truyền, tôi đã khép lòng và cảm thấy phản cảm.

Vài tháng sau, khi cuộc sống ở New York trở nên quen thuộc, Đức Chúa Trời đã một lần nữa gửi cho tôi tin tức của sự cứu rỗi. Lúc ấy, tôi đang làm việc tại một quán cà phê gần Broadway. Một ngày nọ, một vị khách quen đã tặng tôi vé xem biểu diễn ba lê, nên tôi đã đi xem một mình. Sau khi buổi biểu diễn kết thúc, cảm thấy tiếc chưa muốn về nhà nên tôi đã đi dạo quanh khu vực nhà hát và gặp những người thuộc Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Lần này, những lời về Đức Chúa Trời Êlôhim đã chạm đến tấm lòng tôi một cách mạnh mẽ. Vốn luôn tin rằng mọi sự trên thế gian phải có sự cân bằng, nên sự thật rằng Đức Chúa Trời Cha và Đức Chúa Trời Mẹ cùng tồn tại khiến tôi cảm thấy hài hòa.

“Đúng rồi, điều này quá tự nhiên mà. Hoàn toàn hợp lý!”

Tuần tiếp theo, tôi đã đến Hội Thánh của Đức Chúa Trời và nghiêm túc tìm hiểu lời Kinh Thánh. Những người ở đó đã chỉ cho tôi, một người vốn hoài nghi về Kinh Thánh từ lâu, thấy một cách rõ ràng rằng Kinh Thánh là sự thật cả về mặt khoa học lẫn lịch sử. Tôi cũng đã được xác minh thông qua Kinh Thánh về Lễ Vượt Qua – lời hứa sự sống đời đời và lẽ thật Ba Vị Thánh Nhất Thể, v.v… Khi mỗi câu Kinh Thánh được chỉ ra cho tôi, tôi cảm thấy lẽ thật đang tuôn chảy vào trong tâm trí như thác nước, và nhận thấy mọi hiểu lầm trước kia vỡ tan thành từng mảnh, gây cho tôi một cú sốc mạnh.

Dù lẽ thật rõ ràng không thể phủ nhận, song tôi vẫn chưa thể dễ dàng đưa ra quyết định sẽ bắt đầu lại cuộc sống tín ngưỡng tại Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Đó là bởi tôi vẫn cho rằng “Hội Thánh” là nơi bó buộc tự do và có nhiều hạn chế. Khi tôi còn đang lưỡng lự, người nhà trong Hội Thánh đã nói với tôi:

“Tại sao lại không chứ? Cứ thử một lần xem.”

Trong khoảnh khắc, tôi bỗng có được dũng khí. Ấy chính là phương châm tôi đã tự nhủ trong lòng khi đặt bước chân đầu tiên đến New York. Mỗi khi ai đó rủ thử làm gì đó, dù là món ăn mới, nơi chốn mới hay trải nghiệm mới, tôi đều nghĩ “Tại sao lại không?” trong khi tự nhủ hãy cứ thử trước đã, rồi quyết tâm thử. Cũng không có lý do gì để không thử đi theo Đức Chúa Trời nên ngày hôm đó, tôi đã nhận lãnh phước lành của sự sống mới.

Song từ đó đến lúc xây dựng được đức tin, tôi đã mất khá nhiều thời gian. Tôi rơi vào lầm tưởng rằng không nhất thiết phải đến Hội Thánh, chỉ cần tự mình đọc Kinh Thánh thì cũng có thể được cứu rỗi, nên đã tránh liên lạc với các người nhà Siôn. Thế nhưng các người nhà đã chăm sóc linh hồn tôi bằng tình yêu thương vô hạn để tôi có thể bước đến con đường của sự cứu rỗi. Mỗi lần đến thăm, họ luôn quan tâm để tôi cảm thấy thoải mái và tận tâm nuôi dưỡng tôi bằng từng câu lương thực lời. Giống như người mẹ đang dỗ dành và vỗ về khi cho con uống thuốc đắng, họ cũng dỗ dành và an ủi tấm lòng tôi. Các người nhà sẵn sàng thay đổi lịch trình của mình để đến gặp và hết lòng trao cho tôi tình yêu thương chân thành mà không hề tiếc gì. Tôi thật sự biết ơn các người nhà trên trời, những người đã không buông tay tôi và nhẫn nại chờ đợi dù tôi chưa trưởng thành.

Giống như các người nhà, khi tôi đi theo Đức Chúa Trời một cách đúng đắn, cuộc sống của tôi đã hoàn toàn thay đổi. Điều tôi cảm tạ trên hết là việc tôi có thể bày tỏ vinh hiển của Đức Chúa Trời bằng tất cả những gì mình đã học và trau dồi ở trường cho đến giờ. Với tư cách trong đội thánh ca, tôi đã tán dương ân huệ của Đức Chúa Trời, cùng các người nhà lên kế hoạch, tổ chức những sự kiện văn hóa, triển lãm làm thức tỉnh mọi người về tình yêu thương của Cha Mẹ trên trời. Đức Chúa Trời đã đổ xuống phước lành vượt trên cả những gì mà tôi xứng đáng, dù đức tin của tôi còn nông và chậm lớn. Trong quá trình ấy, tôi cũng đã nhận được thật nhiều sự nhận thức.

Khi chuẩn bị cho tiết mục múa quạt theo giai điệu Bài Ca Mới, tôi đã học được sự quan tâm và hòa thuận. Để nhiều người nhà cùng tạo nên đội hình đẹp, mỗi người cần tôn trọng lẫn nhau và chuyển động đồng nhất như một thân. Sự dạy dỗ của Mẹ như sự quan tâm và nhu mì, liên hiệp và vâng phục đã được thể hiện trong màn trình diễn múa quạt nghệ thuật.

Trên sân khấu được chuẩn bị như vậy, tôi đã tìm thấy con người thật của mình trong sự hòa hợp cùng với các người nhà Siôn. Những sự kiện ở cùng các người nhà Siôn khiến tôi có cảm giác như đang cùng những diễn viên và đội ngũ nhân viên xuất sắc nhất tạo nên một tác phẩm hoàn hảo. Dù mỗi người có tính cách và talâng khác nhau, nhưng tất cả đều mang trong mình tình yêu thương ấm áp của Cha Mẹ và tham gia, nên ân huệ của Đức Chúa Trời đã đầy tràn. Những sự kiện được chuẩn bị để bày tỏ vinh hiển của Đức Chúa Trời và chia sẻ tình yêu thương cùng sự trông mong cho nhiều người lại trở thành quá trình gieo cho tôi những đức mục cần thiết.

Khi đến thăm Hàn Quốc, tôi đã nhận được nhiều ân huệ trước hình ảnh điềm tĩnh và tin kính của các người nhà Hàn Quốc mà đã giúp đỡ bên cạnh tôi. Giữa lịch trình bận rộn, các người nhà Hàn Quốc chắc hẳn phải rất mệt mỏi khi chăm sóc tỉ mỉ cho các người nhà đoàn thăm viếng, song các người nhà Hàn Quốc luôn tràn đầy năng lượng phần linh hồn đã giúp chúng tôi được tiếp thêm sức mạnh. Khi tìm hiểu bí quyết đó là gì, tôi nhận ra rằng đó là vì các người nhà lúc nào cũng tràn đầy tình yêu thương của Mẹ. Trong khi luôn dõi theo Mẹ – Đấng ngày đêm nỗ lực và hy sinh vì các con cái, họ đã có thể kiên trì thực tiễn những sự dạy dỗ của Mẹ để sửa mình. Tôi hiểu ra rằng chính sự hiến thân của Mẹ là nguồn sức mạnh giúp chúng ta không ngừng biến hóa và trau dồi phẩm tính đẹp đẽ. Không chỉ vào mỗi khoảnh khắc gặp Mẹ mà cảm thấy đau lòng và tự trách vì sự hy sinh của Mẹ, bây giờ, tôi thực sự cảm thấy rằng mình cần phải biến hóa. Vì vậy, từ đó, khi làm công việc Tin Lành, tôi luôn nghĩ “Lúc này, nếu là Mẹ thì Mẹ sẽ làm thế nào?” và cố gắng thực tiễn theo sự dạy dỗ ấy. Ngay cả khi mệt mỏi hay gặp khó khăn, tôi đã vượt qua bằng cách nhớ đến hy sinh của Mẹ.

Trước chuyến thăm viếng Hàn Quốc của mình vào năm nay, một người nhà luôn trao cho tôi tình yêu thương không thay đổi đã tặng tôi một tấm thiệp nhỏ. Trong thiệp, chị em viết rằng thật xúc động và cảm tạ Đức Chúa Trời vì thấy tôi siêng năng trong công việc của Đức Chúa Trời, và ở cuối tấm thiệp chị em đã viết thế này:

“Chị em đã đưa ra quyết định tuyệt vời nhất trong đời.”

Tôi đã nghẹn ngào trước những dòng thể hiện đúng những điều sâu thẳm trong tấm lòng tôi. Thật vậy, lựa chọn bước đi trên con đường Tin Lành hướng đến Nước Thiên Đàng chính là quyết định tuyệt vời nhất mà tôi từng đưa ra. Không phải bởi một mình, mà nhờ tình yêu thương vô hạn của Cha Mẹ cùng sự chân thành và kiên nhẫn của các người nhà, tôi mới có thể làm được điều này. Trong tương lai, tôi sẽ cố gắng hết sức để liên hiệp với các người nhà và tiến hành sứ mệnh được giao phó cho đến khi trang hoàng phần kết của sân khấu – hoàn thành Tin Lành thế giới.