Nếu không hiểu biết tình yêu thương của Đức Chúa Trời một cách đúng đắn thì chúng ta không thể có cuộc sống đức tin đầy ân huệ luôn luôn vui mừng, cảm tạ và dâng vinh hiển lên Đức Chúa Trời được.
2000 năm trước, khi hiểu biết được tình yêu thương của Đức Chúa Jêsus Christ đã hy sinh cho đến khi bị đóng đinh trên thập tự giá và chết, các sứ đồ đã phục hưng truyền đạo và Tin Lành được lan truyền ra khắp thế giới một cách nhanh chóng đặng nhiều người nghe. Cũng một lẽ ấy, ở thời đại cuối cùng này, khi chúng ta hiểu biết tình yêu thương của Đức Chúa Trời Mẹ và ý muốn của Đức Chúa Trời Cha, thì các thành viên gia đình Nước Thiên Đàng bị lạc mất sẽ được dẫn dắt trở về Siôn.
Ngày xưa, có một người mẹ. Không may, đứa con trai nhỏ của người mẹ ấy bị mắc bệnh nặng và đang ở ranh giới sống chết. Người mẹ chăm sóc tận tình bao nhiêu ngày để làm cho con trai được sống lại.
Rồi đến một hôm, một người du khách ghé vào xin uống nước. Người mẹ ấy đi xuống bếp để dọn một chút đồ ăn và nước uống cho du khách ấy. Thế mà khi trở lại phòng, người mẹ không thấy du khách cùng con trai yêu quý đâu nữa.
Trong nỗi buồn đau như bầu trời bị sụp, người mẹ ấy vừa than kêu tên con trai vừa đi tìm con trai khắp bốn phương. Trời khuya thật nhanh, và lòng người mẹ càng bị buồn đau. Duy chỉ có một nỗi niềm phải làm sao tìm ra con trai, người mẹ cứ đi lang thang, lỡ chân rớt xuống hồ lớn. Lập tức, thần hồ hiện ra trước người mẹ ấy và nói:
“Tôi sẽ giúp bà đi qua hồ nếu bà cho tôi đôi mắt lấp lánh của bà!”
Người mẹ chỉ có một lòng tha thiết tìm lại con trai, không nghĩ lâu, móc đôi mắt mình cho thần hồ và vượt qua được hồ ấy.
Vì mất đôi mắt không nhìn được phía trước, người mẹ bị mù chỉ than kêu tên con trai và cứ bước chân đi tới, rồi lại bị lỡ chân rớt xuống vực sâu. Trong vực sâu đầy bụi gai, dầu vẫn sống sót nhưng cả thân người mẹ ấy bị gai đâm, bị chai, bị xé trong bụi gai và chảy máu. Dầu cựa quậy thế nào cũng không thể thoát ra khỏi bụi gai được. Lúc ấy, thần bụi gai hiện ra trước mặt người mẹ.
“Vì mùa đông, cả thân tôi đã bị cóng thế này rồi. Nghe nói lòng của người mẹ rất nóng bỏng! Vậy nếu bà ôm tôi bằng lòng nóng bỏng để làm ấm thân thể đang bị cóng của tôi, thì tôi sẽ giúp bà thoát ra khỏi bụi gai!”
Chỉ một lòng làm sao ra khỏi bụi gai và tìm ra con trai mình, người mẹ cũng nghe theo yêu cầu của thần bụi gai. Dầu trong gió tuyết lạnh buốt thổi đến, người mẹ vẫn ôm bụi gai trong lòng. Dầu bị gai nhọn đâm vào da thịt và chảy máu, nhưng người mẹ không kêu than điều gì, bởi chỉ có làm cho bụi gai ấm lại thì mới có thể tiếp tục đi tìm con trai. Vậy, người mẹ lấy hết sức mà ôm bụi gai vào trong lòng thật lâu.
Rồi cuối cùng, bụi gai đã bị cóng lạnh lại bắt đầu được ấm lại, rồi đâm chồi, dầu là mùa đông lạnh giá. Như thế, bụi gai tự dưng lui lại xa với người mẹ và mở đường cho. Người mẹ thật khó khăn mới thoát ra khỏi bụi gai, nhưng cả thân bị đâm, bị xé, gấp gáp bước đi tiếp để tìm con trai mình. Dù đôi mắt mình bị thế nào, dầu cả thân thể bị xé thể nào, người mẹ cũng không quan tâm mà chỉ vừa kêu tên con trai tha thiết, vừa bước từng bước một.
Đi như vậy bao lâu, mồ mả chặn ngang trước mặt người mẹ. Tại đó, thần mồ mả kêu người mẹ ấy đứng lại. Thần mồ mả ấy có hình ảnh cụ già thật xấu đến đỗi ai trông thấy cũng buồn ói.
“Nếu không được phép của tôi thì bà không được đi tiếp nữa đâu! Nếu bà cho tôi sự trẻ trung và sự đẹp đẽ của bà, thì tôi sẽ cho bà đi qua!”
Người mẹ ấy nghe theo yêu cầu của thần mồ mả, cho thần mồ mả sự trẻ trung và sự đẹp đẽ, rồi mang lấy hình ảnh già nua xấu xí của thần mồ mả ấy, bởi vì người mẹ ấy nghĩ rằng không tìm được con trai thì sự trẻ trung đẹp đẽ có nghĩa lý gì. Hai chân mất sức, cả thân bị bủn rủn, hình dáng già nua, và phải hy sinh tất thảy, người mẹ mới gặp lại được con trai mà mình cứ đi tìm tha thiết.
Đây là một phần trong câu chuyện ngày xưa nói về tình yêu thương và hy sinh vô bờ của mẹ. Chính vì tình yêu thương chí cao chí tôn của mẹ, cả loài người sinh ra đều mang theo trong lòng tình yêu thương đối với mẹ.
Sở dĩ sống mũi chúng ta cay, tấm lòng chúng ta xúc động, mắt nhỏ giọt lệ mỗi khi gọi ‘Mẹ’ là vì tình yêu thương cao cả đầy hy sinh của Mẹ. Cả loài người không thể không yêu thích và thương mẹ, là vì thông qua mẹ mới biết và học tập được tình yêu thương.
Đối với chúng ta, Cha phần linh hồn và Mẹ phần linh hồn luôn luôn ở cùng với. Cha Mẹ đang ban tình yêu thương cho chúng ta thật nhiều đến nỗi tràn ra, mà nếu chúng ta không nhận lấy tình yêu thương ấy, thì chúng ta không thể chia sẻ tình yêu thương với người khác, cùng không thể đi theo sau đường hy sinh của Cha Mẹ cho đến cuối cùng.
Đạo giao ước mới được nhấn mạnh rằng ‘Đức Chúa Trời là Sự Yêu Thương’. Cho đến khi chúng ta hiểu biết tình yêu thương và hy sinh vô điều kiện thật lớn là tình yêu thương Đức Chúa Trời Mẹ đang ban cho cách nhưng không, chúng ta mới được nhận định ra là đạt được đạo giao ước mới. Thông qua tình yêu thương của cha mẹ phần xác dành cho con cái phần xác, Đức Chúa Trời cho chúng ta thấu hiểu đôi chút về tình yêu thương của Đức Chúa Trời Cha Mẹ.
“… bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài (thần tánh của Ngài), thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được.”Rôma 1:18-20
“… vì Chúa đã dựng nên muôn vật, và ấy là vì ý muốn Chúa mà muôn vật mới có và đã được dựng nên.”Khải Huyền 4:10-11
Trời đất và vạn vật mà Đức Chúa Trời sáng tạo ra bao hàm ý muốn của Đức Chúa Trời. Vậy thì tại sao ‘mẹ’ đầy tình yêu thương như thế, tại sao ‘mẹ’ sẵn sàng hy sinh vì con cái như thế? Đây là ý muốn gì của Đức Chúa Trời để dạy dỗ chúng ta đây?
Để tìm được con cái, Mẹ móc bỏ đôi mắt của Mẹ, hy sinh cả thân thể và đem cho sự trẻ trung của Mẹ. Mẹ đến thế gian tối tăm này, là xứ tội ác này vì tình yêu thương chí cao đối với chúng ta.
Chúng ta nghĩ đến tình yêu thương đầy hy sinh mà Đức Chúa Trời đã khắc sâu vào trong hình ảnh người mẹ, thì dễ dàng hiểu được rằng Mẹ linh hồn chúng ta yêu thương chúng ta đến đỗi nào.
Nếu có ai hỏi các anh chị em rằng “Anh có thể đổi sự trẻ trung của mình lấy sự già nua vì mẹ không” hay “Chị có thể móc bỏ đôi mắt để làm trọn hiếu thảo không?” thì anh chị em có thể trả lời ngay rằng “Vâng, tôi sẽ làm thế!” được chăng? Dầu đã trả lời “vâng” rồi, nhưng đến giờ mình phải thực hiện thì ai có thể làm thật thế được chăng?
Chúng ta biết rất rõ rằng sứ đồ Phierơ và các môn đồ khác đã như thế nào. Họ nói rằng “Dầu tôi phải chết cùng thầy, tôi cũng chẳng chối thầy đâu” nhưng trước mặt sự chết thì họ đều đã từng từ chối Ngài và lìa khỏi Ngài.
“Đức Chúa Jêsus phán cùng môn đồ rằng: Hết thảy các ngươi sẽ gặp dịp vấp phạm… Phierơ thưa rằng: Dầu mọi người vấp phạm vì cớ thầy, nhưng tôi chẳng hề làm vậy… Nhưng Phierơ lại thưa cách quả quyết hơn rằng: Dầu tôi phải chết cùng thầy, tôi cũng chẳng chối thầy đâu. Hết thảy các môn đồ khác cũng đều nói như vậy… Bấy giờ, mọi người đều bỏ Ngài và trốn đi cả.”Mác 14:27-50
Dầu làm cái gì đó vì cha mẹ, nhưng chỉ tới mức độ nào đó mà thôi. Song, cha mẹ có tình yêu thương chẳng tiếc gì, lại làm được hết thảy vì con cái. Cha Mẹ sẵn lòng bỏ Ngai vinh hiển trên trời, cũng chẳng ngại gì mang áo tội ác, là xác thịt, và đến tận xứ tội ác. Trong cõi lòng chúng ta phải thấu hiểu sâu sắc về tình yêu thương của Đức Chúa Trời Mẹ.
Nếu chúng ta không hiểu được hy sinh và tình yêu của Mẹ thì ắt phải có sự ghen ghét, đố kỵ, tranh cãi, là những sự Đức Chúa Trời không đẹp lòng gì cả, nhưng nếu chúng ta hiểu biết và cảm nhận được tình yêu thương của Cha Mẹ ngay cả trong việc rất nhỏ thì sẽ giữ gìn lòng đức tin lớn mà sống được.
Chúng ta luôn luôn không quên cảm tạ Mẹ vì Mẹ ở với chúng ta nên chúng ta mới ăn được tình yêu của Mẹ mà lớn lên, lại trong tình yêu thương ấy chúng ta mới có sự hiểu biết rằng chúng ta không bị nguy hiểm hay sự cố, vẫn bình an vô sự hôm nay là nhờ núp bóng bàn tay che chở và nâng đỡ của Đức Chúa Trời.
Mấy hôm trước tôi đã thấy sự qua đời của một người, và nghe lời kể của những người làm xong sự cuối cùng của người qua đời ấy. Người qua đời đã là bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, qua đời khi mới chỉ 40 tuổi, nên gia quyến đã hoả táng.
Theo lời người theo dõi hoả táng, thì sau khi đốt cháy trong lò, chỉ còn một nắm tro mà thôi. Người theo dõi hoả táng nói rằng thật là hư vô vì người mới qua đời đã phải ăn, phải mặc, cạnh tranh và lao khổ vì sự giàu có và danh dự trong vòng 40 năm, rồi cuối cùng chỉ để lại một nắm tro thôi.
Người theo dõi nói rằng vừa nhìn quá trình hoả táng vừa thấy thật cảm tạ Đức Chúa Trời thay, vì mình hiểu biết được rằng những gì thuộc về phần xác thật hư vô, lại hư vô và thật chẳng là gì, còn mình thì đang biết và tin Đức Chúa Trời. Dầu sống sáu bảy mươi năm hay hai ba mươi năm, cuối cùng loài người sẽ hoá ra một nắm tro bụi; trong khi bao nhiêu người xung quanh lao khổ và đổ mồ hôi chỉ vì những gì thuộc xác thịt là phần sẽ bị thối nát, còn mình thì không như vậy nên anh em ấy thật cảm tạ Đức Chúa Trời.
Thật, loài người suốt đời lao khổ và dốc sức để để lại một nắm tro bụi mà chấm dứt đời sống. Vì con cái đương đi theo con đường ngu dại như vậy, nên Đức Chúa Trời nhấn mạnh nhiều trong Kinh Thánh rằng vạn sự trong thế gian thật là hư vô và hư vô để nhắc nhở con cái (Truyền Đạo 1:1-10). Chúng ta đã nhận sự dạy dỗ thật quý báu của Đức Chúa Trời rồi, mà lại phải tốn cả đời sống của mình chỉ vì phần xác sẽ hoá ra một nắm bụi tro chăng?
Vừa đọc Êsai chương 53, chúng ta hãy lần nữa cảm nhận tình yêu thương chí cao và chí tôn của Cha Mẹ, Đấng đãõ đến thế gian trong hình ảnh loài người và hy sinh chỉ vì con cái.
“Ai tin điều đã rao truyền cho chúng ta… Người chẳng có hình dung, chẳng có sự đẹp đẽ; khi chúng ta thấy người, không có sự tốt đẹp cho chúng ta ưa thích được… Nhưng người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương, Bởi sự sửa phạt người chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bịnh. Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy: Đức Giêhôva đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng ta đều chất trên người…”Êsai 53:1-9
Khi đến thế gian, Cha Mẹ chúng ta không có hình dung mà người ta thấy tốt đẹp hay ưa thích. Vì phải qua hết tuổi thanh xuân và sự trẻ trung, phải hy sinh sự đẹp đẽ, rồi đến khoảnh khắc cuối cùng Cha Mẹ mới tìm kiếm được con cái đã bị mất. Hình của Đức Chúa Trời Mẹ đang ở cùng chúng ta chính là hình ảnh của người mẹ trong câu chuyện ở trên.
Vì có hy sinh và đau đớn của Mẹ nên mới có chúng ta ngày hôm nay. Dầu vậy, chúng ta chưa từng nghĩ, chưa từng biết quá trình mà để có kết quả hôm nay. Ngày nay, Hội Thánh của Đức Chúa Trời tồn tại được là bởi hy sinh và tình yêu thương của ai? Chúng ta hôm nay được sống vui mừng trong sự trông cậy thật quý và hy vọng chân tình, chứ không ở trong cuộc đời chẳng có sự trông cậy sẽ bị hoá ra một nắm tro, là nhờ có hy sinh và tình yêu thương chí cao của Đức Chúa Trời Mẹ.
Dầu thời đại thay đổi, và tuy đã đến thời đại đạo đức và nhân nghĩa thế gian đều bị tan vỡ hết, tình yêu thương của mẹ luôn còn mãi. Tấm lòng chí tôn yêu thương con cái của mẹ không bị ngăn cản bằng bất cứ cái gì, cũng không bị xoá mất đi được. Thông qua thiên lý muôn vật ấy, chúng ta cũng phải học tập và hiểu biết được tình yêu thương và nỗi tiếc nuối của Đức Chúa Trời Mẹ hướng về con cái.
Hết thảy điều răn của Đức Chúa Trời đều thật quý và trọng yếu, nhưng điều quan trọng hơn nữa là chúng ta hiểu biết tình yêu thương cao quý của Đức Chúa Trời được chứa đựng trong điều răn ấy và giữ gìn. Nếu không biết tình yêu thương ấy mà chỉ biết điều răn của Đức Chúa Trời thôi, thì ấy chẳng qua là đồng kêu lên hay chập chỏa vang tiếng mà thôi (I Côrinhtô 13:1-13). Đương nhiên, điều răn của
Đức Chúa Trời thật quý và trọng yếu lắm, nhưng ý chính và căn bản nhất của Kinh Thánh là thông qua các điều răn ấy, dạy dỗ tình yêu thương của Đức Chúa Trời, tức là tình yêu thương của Mẹ.
Hình ảnh của các của lễ hy sinh trong chế độ Cựu Ước là biểu tượng hình ảnh hy sinh của Cha, là của lễ hy sinh và chuộc tội vào 2000 năm trước; chính các hình ảnh ấy đều cũng là hình ảnh hy sinh của Đức Chúa Trời Mẹ ở thời đại này, là hình ảnh đang đốt cháy hết thảy cả Thân Thể của Mẹ để tìm và cứu rỗi con cái.
Ban cho chúng ta thờ phượng ngày thứ ba và ngày thứ bảy, rồi thông qua luật lệ ấy làm cho linh hồn con cái tinh sạch, đốt cháy bản thân và hy sinh để các con cái của Mẹ không bị truất khỏi Tổng Hội của Đức Chúa Trời, ấy là hình ảnh của Mẹ trong chế độ luật lệ Cựu Ước. Chúng ta hãy xem chế độ ấy để hiểu biết được tình yêu thương vĩ đại của Mẹ.
“… biểu dẫn đến người một con bò cái tơ sắc hoe, không tật không vít, và chưa mang ách. Đoạn phải giao nó cho Êlêasa, thầy tế lễ, dẫn ra ngoài trại quân, rồi người ta giết nó trước mặt người. Êlêasa, thầy tế lễ, sẽ dùng ngón tay nhúng huyết nó rảy bảy lần trên phía trước cửa hội mạc. Người ta sẽ thiêu con bò cái tơ đó trước mắt người… Một người tinh sạch sẽ hốt tro con bò cái tơ đổ ngoài trại quân, trong một nơi tinh sạch; người ta phải giữ tro đó cho hội dân Ysơraên để dùng làm nước tẩy uế: ấy là một của lễ chuộc tội… Ai đụng đến một xác chết của người nào sẽ bị ô uế trong bảy ngày. Ngày thứ ba và ngày thứ bảy, người ấy phải dùng nước nầy làm cho mình được sạch, thì sẽ được sạch; còn nếu ngày thứ ba và ngày thứ bảy không làm cho mình được sạch, thì người vẫn không tinh sạch. Phàm người nào đụng đến xác chết của người nào và không làm cho mình được sạch, thì sẽ gây cho đền tạm của Đức Giêhôva bị ô uế. Người đó sẽ bị truất khỏi Ysơraên; vì nước tẩy uế không có rảy trên mình người, nên người vẫn ô uế; sự ô uế của người vẫn ở trên mình người vậy… Còn người nào sẽ bị ô uế mà không làm cho mình được sạch, một người như vậy sẽ bị truất khỏi hội chúng; vì người đã làm cho nơi thánh của Đức Giêhôva bị ô uế. Nước tẩy uế không có rưới trên mình người: người vẫn ô uế. Ấy sẽ là một lệ định đời đời cho dân sự…”Dân Số Ký 19:1-21
Các súc vật được sử dụng làm của lễ chuộc sự mắc lỗi, của lễ chuộc tội, của lễ thù ân, đặc biệt được phân biệt loài đực và loài cái. Vì chiên con Lễ Vượt Qua phải là đực cho nên Đức Chúa Jêsus là Đấng làm cho ứng nghiệm lời tiên tri ấy, đã đến là người nam mà bị hy sinh rồi. Trong sách Dân Số Ký có nội dung được chép trọng tâm nhất là của lễ bò tơ cái. Khi đốt bò tơ cái, mà đốt hết thảy để làm nước rửa tội lỗi của dân Ysơraên. Mọi của lễ hy sinh trong Cựu Ước đều tượng chưng hy sinh của Đức Chúa Trời, vậy, bò tơ cái này làm chứng về ai? và chúng ta bây giờ nhờ hy sinh của Đức Chúa Trời nào mà được tinh sạch trên bàn thờ thờ phượng ngày thứ ba và ngày thứ bảy vậy?
Đây chính là của lễ hy sinh biểu tượng cho Đức Chúa Trời Mẹ chúng ta, là Vợ Mới của Thánh Linh mà đến thế gian. Luật lệ ngày thứ ba và ngày thứ bảy chúng ta được tinh sạch nhờ hy sinh của bò tơ cái, muốn nêu lên hy sinh và tình yêu thương của Đức Chúa Trời Mẹ, chịu đốt hết cả thân thể của Mẹ với tư cách là của lễ hy sinh làm cho con cái bị mắc tội được tinh sạch.
Thông qua thờ phượng ngày thứ ba và ngày thứ bảy Sabát, nhờ Mẹ, được biểu tượng bằng bò tơ cái, bị đốt cháy hết thảy mà hy sinh, các tội lỗi và tội ác ô uế của chúng ta được tha thứ và chúng ta được tinh sạch. Khi nghĩ đến như vậy, chúng ta lấy lời nào mà nói được hết thảy nỗi đau đớn, thống khổ, hy sinh và tình yêu thương của Mẹ đây?
Đức Chúa Trời là Vua của muôn vua, là Chúa của muôn chúa, là Đấng xứng đáng được vinh hiển, tán dương giữa các linh vật trong cả vũ trụ, nhưng Ngài để Ngôi vinh hiển của Ngài sau lưng, chỉ đang mong tìm kiếm các con cái cho đến đỗi Ngài mặc lấy áo xác thịt, vậy chúng ta không nên quên tình yêu thương và hy sinh của Mẹ.
Thật ra, chúng ta vẫn còn làm cho lòng Mẹ đau xót, Mẹ vẫn đảm nhiệm sự đau đớn ấy. Bây giờ là giờ chúng ta phải có mắt linh hồn nhìn thấy được hy sinh và tình yêu thương của Mẹ. Chúng ta cũng không nên quên rằng tội lỗi chúng ta thật nhiều thế nào mà mỗi ngày thứ ba và ngày Sabát Mẹ bị đòi hỏi phải hy sinh như thế.
Có thể có anh chị em nào hiểu lầm rằng vì mình đã tin Đức Chúa Trời rồi nên mọi tội lỗi đã được tha thứ, nhưng trong sự phước lành tha tội chứa đựng hy sinh và tình yêu thương lớn lao của Đức Chúa Trời không thể nói ra được. Khi chúng ta được lành bệnh, Đức Chúa Trời đã bị gai đâm nhói, khi chúng ta được bình an, Đức Chúa Trời vẫn bị đánh roi. Tiền công hy sinh của Đức Chúa Trời Cha Mẹ mà được lãnh là sự tha tội của chúng ta. Cho nên chúng ta không nên để thờ phượng ngày thứ ba và ngày thứ bảy trở thành thờ phượng không biết cảm tạ, thờ phượng không cảm nhận được tình yêu thương của Đức Chúa Trời Cha Mẹ.
Nếu chúng ta không mặc thêm tình yêu thương của Mẹ, thì không bao giờ trở về Nước Thiên Đàng được. Vì chính chúng ta đang ở nơi mà bởi sức và năng lực của chúng ta thì không bao giờ trở về Nước Thiên Đàng được vậy.
Nhờ hy sinh của Mẹ chúng ta được mang lấy sự tinh sạch, nhờ Mẹ bị đâm và vết thương chúng ta mới được lành bệnh và chữa lành, cho nên nếu không có tình yêu thương của Mẹ thì chúng ta há có thể làm việc gì đó được chăng? Chúng ta không bao giờ quên tình yêu thương này, cùng không được nghĩ một cách đơn giản nữa. Chúng ta luôn luôn ghi khắc trên tấm lòng xác thịt, luôn luôn cảm tạ Mẹ và vui mừng. Sách Khải Huyền chương 7 và chương 22 nói rằng “Phước thay cho những người giặt áo mình phiếu trắng trong Huyết Chiên Con, vì họ có quyền thế được đi đến cây sự sống và được vào thành thánh”. Chúng ta đang rửa sạch, phiếu trắng trong nước tro bởi hy sinh và tình yêu thương của Đức Chúa Trời, và mang lấy sự tinh sạch, tức đang sanh lại mới thành bầy nhóm rất thánh được đi đến cây sự sống. Cho nên chúng ta phải cảm tạ và tán dương Đức Chúa Trời của chúng ta đó.
Há có điều gì chúng ta không cảm tạ được, há có điều gì chúng ta không làm được vì anh chị em chúng ta chăng? Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta hết thảy. Lý do chúng ta phải ca ngợi là ở đó, và ấy cũng là lý do chúng ta phải giữ thờ phượng ngày thứ ba và ngày Sabát rất thánh nữa.
Chúng ta hãy suy nghĩ “Lấy cái gì để khiến cho Mẹ, Đấng đang ban sự yêu thương vô điều kiện, được vui mừng?”
Anh chị em há sẽ cứ bất mãn và hay phàn nàn thôi sao? Anh chị em há chỉ cứ đòi Mẹ phải làm gì đó cho mình thôi sao?
Chúng ta đang sống trong thời đại đức tin của người thành nhân, là những người được luyện tập bởi sử dụng tâm tư mà ăn được đồ ăn đặc rồi (Hêbơrơ 5:14). Bây giờ chúng ta phải trở thành con cái chủ tâm hiểu biết tấm lòng của Mẹ đã bị mất con cái, Mẹ thật mong muốn điều gì. Phải hiểu biết hy sinh và tình yêu thương của Mẹ, và thực tiễn tình yêu thương mà chính Mẹ dạy dỗ và làm gương cho chúng ta.
Công việc duy nhất chúng ta phải chủ tâm là phải tìm kiếm hết thảy anh chị em bị mất trên trời để khôi phục Nước Thiên Đàng đời đời và vĩnh viễn, đặng Đức Chúa Trời Mẹ chúng ta ngồi lên Ngai vinh hiển, ấy chính là sự hiếu thảo lớn nhất mà chúng ta phải thực hiện.
Ngày 144.000 em út được ôm vào trong lòng Mẹ chính là ngày chúng ta báo ơn trọn vẹn về tình yêu thương của Đức Chúa Trời Mẹ đã hy sinh vì chúng ta. Chúng ta hãy làm con cái không quên tình yêu thương và ân huệ của Mẹ, luôn luôn cảm tạ Mẹ, để truyền tình yêu thương của Đức Chúa Trời cho đến cùng trái đất và được kết trái tình yêu thương nhiều dư dật.