Phải có đức tin mới trông thấy Đức Chúa Trời

13,763 lượt xem

Khi rao truyền lời, thỉnh thoảng chúng ta gặp những người nói rằng “Nếu cho xem thấy Đức Chúa Trời thì tôi sẽ tin Ngài.” Họ nói rằng “Phải xem thấy thì mới tin được chứ, không xem thấy thì làm thể nào mà tin nổi?”

Phương Tây có câu tục ngữ rằng “Seeing is believing (Thấy là tin)”. Có người nói rằng “Hãy cho tôi xem thấy Đức Chúa Trời ít nhất một lần. Vì có lời rằng ‘Thấy là tin.’ nên tôi sẽ tin nếu cho tôi xem thấy Đức Chúa Trời.” Lúc đó, Đức Chúa Trời đã đáp lời gì cho người ấy đây?

“Hãy tin. Vậy thì sẽ xem thấy.”

Đức Chúa Trời đã cho biết rằng chẳng phải xem thấy mới là tin, mà phải tin thì mới có thể xem thấy hết thảy mọi điều. Giống như lời Kinh Thánh rằng “Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đương trông mong, là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy.” (Hêbơrơ 11:1), nên nếu tin thì sẽ xem thấy được. Vì không tin nên không xem thấy và nghi ngờ.

Có rất nhiều người nói rằng “Nếu cho xem thấy Đức Chúa Trời thì tôi sẽ tin Ngài.”, nhưng dù Đức Chúa Trời ở bên cạnh họ, cùng nói chuyện và ban cho lời dạy dỗ, nhưng nếu có tấm lòng không tin thì tuyệt đối không thể nào xem thấy được Đức Chúa Trời. Cũng phải tin hết thảy mọi lời dạy dỗ và các lời tiên tri của Kinh Thánh thì mới có thể xem thấy và có thể xác minh được. Nước Thiên Đàng cũng như vậy, khi chúng ta có được đức tin ngay thẳng thì mới có thể trông mong Nước Thiên Đàng được.

Mặc dù Đức Chúa Trời đã đích thân mặc xác thịt mà xuống trái đất này vào hai nghìn năm trước và cho xem thấy Ngài, nhưng những người thời đó đã không tin Ngài. Thông qua sự này, chúng ta hãy có thời gian một lần nữa nhìn lại đức tin của chúng ta ngày nay.

Những người xem nhưng chẳng thấy chi

Người ta nghĩ rằng “Nếu Đức Chúa Trời hiện ra và cho xem thấy nhiều điều thì chắc là tôi sẽ tin Ngài.” nhưng sự thật lại trái ngược hoàn toàn. Khi có đức tin thì mới có thể xem thấy hết thảy mọi điều.

Hai nghìn năm trước, Đức Chúa Trời đã trở nên Người mà đích thân đến trái đất này. Đức Chúa Trời đã xuất hiện trước rất nhiều người kêu rằng “Nếu có thể xem thấy Đức Chúa Trời thì tôi sẽ tin.”, Ngài đã dạy dỗ hết thảy kể cả lời Kinh Thánh mà những nhà lãnh đạo tôn giáo đương thời không dạy dỗ được, và đã ban cho sự nhận thức nữa. Nhưng, dù xem thấy Đức Chúa Trời đến trái đất này mà người ta cũng không tin Ngài.

“Nhưng ta đã nói: Các ngươi đã thấy ta, mà chẳng tin.” Giăng 6:36

“… Nhưng vì ta nói lẽ thật, nên các ngươi không tin ta.” Giăng 8:44-45

Dù Ngài đã cho họ xem thấy mà họ cũng không tin Ngài, nên Ngài đã phán rằng “Các ngươi đã thấy Ta, mà chẳng tin.” Đức Chúa Trời đích thân mặc xác thịt và hiện ra đối với những người kêu rằng “Vì không xem thấy nên tôi không tin.” đã là Đức Chúa Jêsus. Đức Chúa Trời dựng nên trời đất và muôn vật đã đến trái đất này theo lời tiên tri của Kinh Thánh, cho xem thấy sự tồn tại của Ngài và đích thân làm chứng bằng lẽ thật, dù vậy mà người ta đã không tin Ngài.

Những người không tin tuyệt đối không thể xem thấy Đức Chúa Trời, Vì thế Kinh Thánh đã phán rằng họ “xem nhưng chẳng thấy chi” (Êsai 6:9-10, Mathiơ 13:14-15). Chẳng phải lời này có nghĩa rằng dù họ xem thấy Đức Chúa Trời, nhưng chẳng nhận ra Ngài là Đức Chúa Trời và cũng không tin Ngài hay sao?

“Cha ta là Đấng lớn hơn hết đã cho ta chiên đó, và chẳng ai cướp nổi chiên đó khỏi tay Cha. Ta với Cha là một. Người Giuđa lại lượm đá đặng ném Ngài. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta đã làm trước mắt các ngươi lắm việc lành bởi Cha đến; vì việc chi mà các ngươi ném đá ta? Người Giuđa trả lời rằng: Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá ngươi, nhưng vì lỗi lộng ngôn: Ngươi là người, mà tự xưng là Đức Chúa Trời.” Giăng 10:29-33

Đức Chúa Trời đã xuất hiện trước mắt họ, Ngài đã giảng đạo và đích thân nói chuyện với họ, thế mà những người Giuđa đương thời đã không tin Ngài dù họ xem thấy Ngài. Dù Ngài làm các việc lành và nói về lẽ thật nhưng họ đã không tin. Lý do ấy là bởi họ đã không có tấm lòng muốn tin. Vì không có đức tin, nên họ đã không thể nhận biết hình ảnh vốn lẽ của Đức Chúa Jêsus. Thế nên, dù đối mặt với Đức Chúa Trời thế mà họ vẫn định ném đá Đức Chúa Trời ấy, viện cớ rằng Ngài trở nên Người mà tự xưng là Đức Chúa Trời.

Kể cả trong nội dung này, chúng ta cũng xác minh được sự thật rằng chẳng phải xem thấy được mới là tin, mà phải tin thì mới có thể xem thấy được Đức Chúa Trời. Với tấm lòng không tin thì dù nhìn trông đến một trăm lần, và nghe đến nghìn lần lời dạy dỗ của Ngài đi chăng nữa, thì cũng không thể tiếp nhận Đấng ấy là Đức Chúa Trời. Chẳng phải sự xem thấy là trước tiên, mà sự tin mới là trước tiên. Đức Chúa Trời của chúng ta chẳng phải là sự tồn tại phải xem thấy mới tin được, mà Ngài là sự tồn tại nếu tin thì tự nhiên sẽ xem thấy được.

Đức tin và sự nhận thức của các môn đồ

Trong số các môn đồ đi theo Đức Chúa Jêsus vào hai nghìn năm trước, đã có những người nhìn trông Đức Chúa Jêsus với đức tin, cũng có những người đã không như vậy. Phierơ và Giăng có đức tin xuất chúng. Họ xem thấy Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời đến trái đất này.

“Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời… Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha.” Giăng 1:1-14

Sứ đồ Giăng, người ghi chép Tin Lành Giăng, đã tin chắc chắn rằng Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời đã sáng tạo trời đất và muôn vật vào lúc ban đầu. Sứ đồ Phierơ cũng có đức tin đồng nhất.

“… Những lời ta phán cùng các ngươi đều là thần linh và sự sống. Song trong vòng các ngươi có kẻ không tin. Vì Đức Chúa Jêsus biết từ ban đầu, ai là kẻ không tin, ai là kẻ sẽ phản Ngài… Từ lúc ấy, có nhiều môn đồ Ngài trở lui, không đi với Ngài nữa. Đức Chúa Jêsus phán cùng mười hai sứ đồ rằng: Còn các ngươi, cũng muốn lui chăng? Simôn Phierơ thưa rằng: Lạy Chúa, chúng tôi đi theo ai? Chúa có những lời của sự sống đời đời; chúng tôi đã tin và nhận biết rằng Chúa là Đấng thánh của Đức Chúa Trời.” Giăng 6:63-69

Ở trước câu Kinh Thánh này đã có ghi chép về cảnh Đức Chúa Jêsus cho năm ngàn người ăn bởi năm cái bánh mạch nha và hai con cá, mà được gọi là kỳ tích “năm bánh hai cá” nổi tiếng. Những người xem thấy kỳ tích đáng ngạc nhiên thậm chí đã định tôn Đức Chúa Jêsus làm vua. Song, dù họ kỳ vọng vào kỳ tích và cứ đi theo Ngài, nhưng Đức Chúa Jêsus đã chỉ dạy dỗ lời thôi. Chẳng bao lâu sau, quần chúng năm ngàn người đã không còn lắng nghe lời dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus thêm nữa, và đã trở lui đi.

Họ đã không tin Đức Chúa Jêsus mà chỉ xem thấy duy chỉ kỳ tích mà Đức Chúa Jêsus đã làm thôi. Vì vậy, tuy ngạc nhiên bởi xem thấy kỳ tích, nhưng họ đã không nhìn biết rằng Đức Chúa Jêsus làm ra kỳ tích ấy chính là Đức Chúa Trời.

Song, mười hai môn đồ bao gồm Phierơ đã đi theo Đức Chúa Jêsus. Phần đáng chú ý trong câu trả lời của Phierơ chính là lời rằng đã “tin và nhận biết” rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời. Vì Phierơ đã tin, nên ông đã nhận biết Đức Chúa Jêsus là ai. Trong lời của ông rằng “Chúng tôi đi theo ai? Chúa có những lời của sự sống đời đời.” có bao hàm ý nghĩa rằng “Chúng tôi đã nhận biết và tin Ngài là ai rồi.”

Trước tiên phải tin thì sau đó mới xem thấy được Đức Chúa Trời. Đôi mắt của người không tin không thể xem thấy Đức Chúa Trời. Dù Đức Chúa Jêsus đã cho thấy kỳ tích đi bộ trên mặt biển, cũng cho thấy kỳ tích người chết sống lại, nhưng những người thể ấy đã tuyệt đối không tin.

Những người không tin mà chỉ xem thấy đã không thể sót lại đến cuối cùng với tư cách là môn đồ của Đức Chúa Jêsus. Giuđa Íchcariốt – một trong số mười hai môn đồ, chính là nhân vật thể ấy. Giống như mười hai môn đồ khác, hắn cũng đã ở cạnh Đức Chúa Jêsus, đã được nghe rất nhiều lời dạy dỗ, và cũng đã xem thấy hết thảy mọi công việc mà Đức Chúa Jêsus đã làm. Song, cuối cùng, hắn đã bán Đức Chúa Jêsus lấy ba chục bạc. Điều ấy là bằng chứng rằng trong tấm lòng của hắn đã không có đức tin vào Đức Chúa Jêsus. Dù đã đi theo Đức Chúa Jêsus suốt năm tháng dài lâu đi chăng nữa, nhưng đôi mắt của người không tin tuyệt đối không thể xem thấy được Đức Chúa Trời.

Sứ đồ Phaolô trước và sau khi tin

Khi có đức tin thì bắt đầu xem thấy hết thảy mọi điều. Trong quá khứ, sứ đồ Phaolô đã từng là người bắt bớ Hội Thánh của Đức Chúa Trời và đứng trên vị trí đối nghịch Đấng Christ khi ông theo giáo Giuđa. Ông đã từng là người hung bạo bắt giam các thánh đồ vào ngục, và đi tiên phong trong việc ném đá giết chết Êtiên – người tin chân thành vào Đức Chúa Jêsus.

“Ta ngày trước vốn là người phạm thượng, hay bắt bớ, hung bạo, nhưng ta đã đội ơn thương xót, vì ta đã làm những sự đó đang lúc ta ngu muội chưa tin.” I Timôthê 1:13

Khi chưa tin thì Phaolô cũng đã không phân biệt được Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, hay là phe người Naxarét. Không tin thì không thể xem thấy được Đức Chúa Trời. Không tin thì dù xem cũng chẳng thấy Đức Chúa Trời, dù nghe lời lẽ thật của sự sống ra từ Ngài thì cũng không thể nghe được, không thể hiểu được.

Song, Phaolô đã ăn năn hối cải và có được đức tin sau khi tiếp xúc với sự sáng vinh hiển của Đấng Christ trên đường đi đến thành Đamách. Tin rồi nhìn thì ông nhận ra rằng Đức Chúa Jêsus không phải là người thợ mộc đơn thuần mà là bản thể của Đức Chúa Trời. Sau đó, Phaolô đã làm chứng về hết thảy mọi lời dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus, và về sự thật rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ. Có được đức tin rồi thì Phaolô đã nhìn biết đúng đắn rằng Đấng ấy quả thật là Đức Chúa Trời. Rồi từ đó về sau, ông đã sống cuộc đời dâng hiến mạng sống mình cho công việc rao truyền Tin Lành.

“Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có, Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời…” Philíp 2:5-6

“Là dân sanh hạ bởi các tổ phụ, và theo phần xác, bởi dân ấy sanh ra Đấng Christ, là Đấng trên hết mọi sự, tức là Đức Chúa Trời đáng ngợi khen đời đời. Amen.” Rôma 9:5

Sách Philíp và sách Rôma là Kinh Thánh được sứ đồ Phaolô ghi chép do cảm động bởi Đức Thánh Linh. Khi chưa tin thì ông đã chỉ hiểu ở mức độ rằng Đức Chúa Jêsus chẳng qua chỉ là một người thợ mộc, và là con trai của Giôsép và Mari, nhưng khi có đức tin rồi thì ông đã nhận biết rằng Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời toàn năng. Và ông cũng nhận ra sự thật rằng từ trước tới giờ bản thân ông đã bắt bớ, hủy báng Đức Chúa Trời, và định tội Ngài là đạo dối. Vì vậy, ông đã thổ lộ rằng “Trong những kẻ có tội đó ta là đầu.” (I Timôthê 1:15).

Vì tin nên ông đã xem thấy hết thảy mọi điều một cách đúng đắn. Ông đã hiểu được hết rằng tại sao Đức Chúa Jêsus phải cưỡi trên lưng lừa con mà đi vào thành Giêrusalem, tại sao Ngài đã lập ra giao ước mới tại buổi Lễ Tiệc Thánh Lễ Vượt Qua cuối cùng với các môn đồ, và tại sao Ngài đã phục sinh sau ba ngày từ giữa những người chết. Tin Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời rồi nhìn trông Đức Chúa Jêsus, thì ông đã có thể xác minh được sự thật rằng hết thảy mọi công việc Đức Chúa Jêsus làm đều thống nhất với lời tiên tri Kinh Thánh.

Lời dạy dỗ của Kinh Thánh cũng vậy, phải tin thì mới có thể xem thấy được. Không có đức tin và xem Kinh Thánh chỉ như là tiểu thuyết, hoặc là lịch sử của Ysơraên, hoặc ghi chép về cuộc đời của nhân vật đặc biệt nào đó, thì 66 quyển Kinh Thánh tuyệt đối không hề mở ra bất cứ thế giới phần linh hồn nào cho chúng ta cả. Có đức tin thì xem thấy được Kinh Thánh, cũng xem thấy được Đức Chúa Trời. Vì vậy, trước khi tin, Phaolô đã chỉ xem Đức Chúa Jêsus như là Người làm đầu đạo dối; nhưng kể từ sau khi có đức tin, Phaolô đã tiếp nhận Đức Chúa Jêsus là Đấng Mêsi và đã đi theo cuộc đời Tin Lành của Đấng Christ bằng đức tin nóng bỏng rằng “Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, và nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa.” (Rôma 14:8).

Hãy tin Thánh Linh và Vợ Mới, thì được nhận sự cứu rỗi

Đức Chúa Trời đến trái đất này trong hình ảnh xác thịt, đã hiện ra và cho loài người xem thấy Ngài. Ngài đã không chỉ làm vậy vào thời Sơ Lâm, mà còn đã làm vậy kể cả vào thời Tái Lâm nữa, nhưng dù Ngài đã cho xem thấy mà người ta lại không tin Ngài.

Vào thời đại này ngày nay, Đức Chúa Trời Cha Mẹ đến trái đất này để cứu rỗi chúng ta, đã mặc áo xác thịt giống hệt với chúng ta, hít thở trong cùng một bầu không gian với chúng ta, nên rất nhiều người chỉ hiểu rằng Ngài chỉ là Người bình phàm. Song, có sự khác biệt rất lớn giữa đôi mắt nhìn trông bằng đức tin với đôi mắt nhìn trông thông thường. Chúng ta phải tin. Phải tin thì mới xem thấy Đức Chúa Trời. Các sứ đồ Hội Thánh Sơ Khai đã cho những người mong muốn được cứu rỗi biết rằng trước tiên hãy có đức tin vào Đức Chúa Trời.

“Đoạn, đưa hai người ra ngoài, mà hỏi rằng: Các chúa ơi, tôi phải làm chi cho được cứu rỗi? Hai người trả lời rằng: Hãy tin Đức Chúa Jêsus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi.” Công Vụ Các Sứ Đồ 16:30-31

Các sứ đồ đã nói rằng hãy tin, nếu tin thì sẽ được cứu rỗi. Hãy nhìn trông Đức Chúa Trời bằng đức tin. Khi có đức tin thì mới có thể xem thấy Đức Chúa Trời. Trong khi nghi ngờ thì không những không thể phát hiện ra Đức Chúa Trời, mà còn không thể thấy được lẽ thật nữa. Người không tin không thể xem thấy Đức Chúa Trời, dù người đó sinh hoạt ngay bên cạnh Đức Chúa Trời giống như Giuđa Íchcariốt, và dù ngày nào Đức Chúa Trời cũng trải bày ra kỳ tích đáng ngạc nhiên nhưng người ấy trông thấy kỳ tích mà tuyệt đối không thể phát hiện ra Đức Chúa Trời ở trong đó.

Dù nhìn thấy Đức Chúa Trời đến trong xác thịt mà người ta vẫn nói rằng “Tại sao Đức Chúa Trời lại không làm được kể cả việc đó nữa. Chẳng phải Ngài cũng có thể làm được điều này, cũng có thể làm được điều kia bởi năng lực hay sao?”, “Hãy xuống khỏi cây thập tự đi, thì chúng ta mới tin.” (Mathiơ 27:42). Nhưng Đức Chúa Trời tuyệt đối không làm như vậy. Đó là bởi sự muốn tin thông qua dấu lạ và phép lạ không phải là đức tin chân chính.

Phải tin thì mới biết tại sao Đức Chúa Trời đã làm như thế. Khi tin rằng Đấng Christ đến trái đất này trong xác thịt là Đức Chúa Trời và dò xem từng mỗi một công việc của Ngài thì mới có thể hiểu được rằng Ngài đã sống cuộc đời của lời tiên tri theo hết thảy mọi chứng cớ của Kinh Thánh và các đấng tiên tri.

Nhờ Đức Chúa Trời mở mắt và tai của chúng ta và ban cho tấm lòng hiểu biết mà chúng ta đã tiếp nhận Đức Chúa Trời Cha và Đức Chúa Trời Mẹ đến trái đất này với tư cách là Thánh Linh và Vợ Mới. Nhìn trông bằng con mắt đức tin thì có thể hiểu được rằng trong hết thảy mọi công việc mà Thánh Linh và Vợ Mới phán bảo và tiến hành vào ngày nay đều chứa đựng ý muốn lớn lao vì sự cứu rỗi nhân loại, giống như rất nhiều công việc mà Đức Chúa Jêsus đã cho các môn đồ xem thấy trong quá khứ đã được ứng nghiệm không phải một cách ngẫu nhiên.

Chúng ta phải đính chính câu tục ngữ “Thấy là tin.” thành “Tin là thấy.” Giống như các sứ đồ vào 2 nghìn năm trước đã kêu la xác tín rằng “Hãy tin Đức Chúa Jêsus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi.”, mong chúng ta đều trở thành những người giúp việc của giao ước mới thời đại này mà tự tin làm chứng rằng “Hãy tin Đức Chúa Trời Êlôhim, là Thánh Linh và Vợ Mới, thì sẽ xem thấy và được cứu rỗi.”

Phải tin thì mới xem thấy được hết thảy mọi thứ, phải tin thì thế giới trên trời mới mở ra. Tin vào hết thảy mọi lời dạy dỗ mà Đức Chúa Trời đã ban cho và nhìn xem hết thảy mọi thứ trong thế giới đức tin thì mới có thể xác minh được sự thật rằng thật sự là Đức Chúa Trời có tồn tại, và hết thảy mọi lời hứa cứu rỗi mà Đức Chúa Trời ban cho là chắc chắn.

Xung quanh chúng ta vẫn còn có rất nhiều người đang ở trong bóng tối, nên dù xem mà chẳng thấy chi. Hãy rao truyền cho họ rằng “Hãy tin. Tin thì sẽ xem thấy.” Đức Chúa Trời Cha Mẹ đã đến trái đất này để cứu rỗi chúng ta, đã tìm lại lẽ thật giao ước mới cho chúng ta, và đã để lại cho chúng ta lời dặn dò chí thánh và chứa đựng tình yêu thương rằng hãy tìm kiếm hết thảy anh em chị em phần linh hồn bị mất rồi cùng trở về Nước Thiên Đàng vĩnh cửu. Mong hết thảy người nhà Siôn tiếp nhận tốt lời dặn dò ấy và đi theo bất cứ nơi nào Cha Mẹ dẫn dắt.