Vì Đức Chúa Trời phán “Hãy nhớ ngày nghỉ (Ngày Sabát Thứ Bảy) đặng làm nên ngày thánh”, nên các thánh đồ Siôn giữ ngày Sabát. Vì Đức Chúa Trời phán “Đàn bà phải trùm đầu khi thờ phượng”, nên các thánh đồ nữ dùng khăn trùm đầu. Tất cả những công việc của đức tin làm theo lời phán như thế chính là vâng phục Đức Chúa Trời.
Người tin theo Đấng Christ phải luôn sống theo như lời phán của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời phán rằng đừng thêm và đừng bớt những lời trong Kinh Thánh. Bởi vì Đức Chúa Trời đã đặt trong Kinh Thánh tất thảy các phương pháp cứu rỗi.
Nếu đi theo con đường mà Đức Chúa Trời chỉ bảo, thì cuối con đường ấy có Nước Thiên Đàng, sự cứu rỗi và sự sống đời đời, và có Đức Chúa Trời chào đón chúng ta. Hãy khắc sâu sự thật này trong tim, và hãy có thời gian cùng ngẫm nghĩ về phước lành của người vâng phục theo như lời phán của Đức Chúa Trời.
Ngày xưa, ở một nước nọ có một ông vua hiền minh. Ông vua ấy muốn biết người dân của mình chính trực và thật thà đến đâu, và có đang tuân theo tốt mệnh lệnh của vua không. Cho nên, vua đã phát cho mỗi nhà dân một nắm hạt giống, và công bố rằng vào thời gian này sang năm, sẽ ban thưởng lớn cho người nào chăm sóc hạt giống được nở hoa đẹp nhất.
Một năm sau, vua phán lệnh dân chúng mang hoa mà họ trồng đến. Dân chúng đều ra ngoài đường, mang theo chậu hoa đủ các loại sắc mầu đỏ vàng đến trước vua, ai cũng khoe rằng mình đã hết sức nhiệt tình chăm bón nên hoa nở đẹp rực rỡ. Vua khen nỗi vất vả của họ. Khi đi ngang qua đám đông, vua thấy một cậu bé đến với hai bàn tay trắng và đang khóc. Vua liền hỏi cậu bé tại sao lại khóc. Cậu bé trả lời rằng: “Dù tôi gắng sức nỗ lực đến đâu, nhưng kỳ lạ là chỉ hạt giống của tôi không chịu nảy mầm. Tôi cảm thấy mình là người vô dụng nhất nước, nên tôi khóc.”
Nghe thấy vậy, vua liền vuốt tóc cậu bé, và công bố rằng người mà mình đang tìm kiếm chính là cậu bé này. Thực ra tất thảy hạt giống mà vua phát cho dân chúng đều là hạt giống đã luộc chín, nên không có sức sống. Vua đã ban cho hạt giống mà trông bề ngoài thì bình thường, nhưng không thể nở hoa được. Vua đã muốn tìm kiếm người dân thật lòng theo và vâng phục lời của vua bất cứ khi nào, kể cả khi vua không thấy người đó. Vua đã rất vui mừng và thỏa mãn vì tìm kiếm được dù chỉ là một người như thế trong dân chúng, và đã ban thưởng hậu hĩnh cho cậu bé.
Giống như cậu bé trong câu chuyện, chúng ta cũng phải trở thành những người thực sự vâng phục và tin theo Đức Chúa Trời, bằng cách làm theo như lời phán của Đức Chúa Trời. Tuy là hạt giống vua ban, nhưng dù chăm bón thế nào cũng không nẩy mầm, nên dân chúng nảy ra suy nghĩ đổi lấy hạt giống khác. Suy nghĩ tương tự như vậy sẽ dẫn đến hậu quả là lẽ thật bị biến chất, và cánh cửa đến sự sống đời đời bị đóng chặt. Người tin theo Đấng Christ cần phải làm theo như lời Đức Chúa Trời phán, với đức tin thật sự. Vua cũng cố tình ban phát hạt giống đã luộc chín cho từng gia đình để tìm ra người dân vâng phục.
Để vua chú ý tới mình, dân chúng đã đổi hạt giống. Nhờ đó, vua đã phân biệt được rằng họ không phải là những người thật sự vâng theo mệnh lệnh của mình. Cậu bé cũng đã có thể lựa chọn cách mà những người khác đều làm. Hoa những người khác đều nở, riêng chậu hoa của cậu bé không nở, nên cậu bé đã lo lắng và đau khổ biết bao? Tuy vậy, cậu bé không tìm hạt giống khác như những người khác, mà chỉ dốc sức vào hạt giống vua ban theo như mệnh lệnh của vua. Đó chính là tấm lòng chân thật mà vua mong muốn.
Chúng ta phải làm theo như lời dạy dỗ trong Kinh Thánh, vì đó chính là phương pháp mà Đức Chúa Trời mách bảo. Đức Chúa Trời không trông mong ở tài năng và sự khôn ngoan của chúng ta. Vì Đức Chúa Trời có tất thảy quyền năng và sự khôn ngoan, nên Ngài không cần thiết bất cứ thứ gì của chúng ta. Đức Chúa Trời chỉ muốn tìm ra những người vâng phục theo ý muốn của Ngài một cách chân thật và đúng đắn. Những người như thế xứng đáng được đi vào Nước Thiên Đàng.
Đức Chúa Jêsus cũng đã học tập vâng lời bởi những sự khốn khổ mình đã chịu và nhờ đó được làm nên trọn vẹn rồi. Vâng phục là một trong những đức hạnh mà chúng ta nhất định phải học tập để được trở thành cái trọn vẹn ở Nước Thiên Đàng.
“Dầu Ngài là Con, cũng đã học tập vâng lời bởi những sự khốn khổ mình đã chịu, và sau khi đã được làm nên trọn vẹn rồi, thì trở nên cội rễ của sự cứu rỗi đời đời cho kẻ vâng lời Ngài, lại có Đức Chúa Trời xưng Ngài là thầy tế lễ thượng phẩm theo ban Mênchixêđéc.” Hêbơrơ 5:8-10
Nếu không vâng phục thì không thể được nên sự trọn vẹn. Đức Chúa Jêsus đã vâng phục Đức Chúa Trời cho đến chết, nhờ đó mà được làm nên sự trọn vẹn. Và sự vâng phục trọn vẹn ấy đã sanh được kết qủa là làm cho những người vâng phục Đức Chúa Jêsus cũng vâng phục được theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Khi tôi vâng phục trọn vẹn ý muốn của Đức Chúa Trời, và rao truyền ý muốn của Ngài cho những người khác, thì những người được tôi rao truyền cũng vâng phục trọn vẹn ý muốn của Đức Chúa Trời và được cứu rỗi. Chính vì thế, Kinh Thánh biểu rằng Đấng Christ đã trở nên cội rễ của sự cứu rỗi đời đời. Nền tảng của sự cứu rỗi chính là vâng phục.
“Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có, Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người; Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự. Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh… thảy đều quì xuống, và mọi lưỡi thảy đều xưng Jêsus Christ là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha. Ấy vậy, hỡi những kẻ rất yêu dấu của tôi… hãy càng hơn nữa, mà lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình.” Philíp 2:5-12
Nếu chúng ta trông cậy vào tài năng và năng lực của bản thân hơn là vâng phục theo lời của Đức Chúa Trời, thì sẽ không thể nhận được phần thưởng, mặc dù chúng ta làm tốt công việc Đức Chúa Trời giao phó. Điều ấy cũng giống như dân chúng không nhận được phần thưởng từ vua, mặc dù họ đã làm cho hạt giống khác, không phải hạt giống mà vua ban, được nẩy mầm và nở hoa rực rỡ. Đức Chúa Trời đang tìm kiếm người dân vâng phục theo lời phán của Ngài, giống như chủ nhân của chậu hoa giữ y nguyên hạt giống đã luộc chín. Đức Chúa Trời nâng lên rất cao những người dân vâng phục tuyệt đối như Đấng Christ.
“Tôi thật không có đức tin, lại hay mắc phải cám dỗ, thử thách, lại biếng nhác công việc của Đức Chúa Trời.” Nếu cảm thấy như vậy thì trước tiên hãy suy nghĩ xem mình có đang vâng phục tốt theo ý muốn của Đức Chúa Trời hay không. Người vâng phục tốt ý muốn của Đức Chúa Trời không thể không có đức tin cháy bỏng, và cũng không thể bị mắc phải cám dỗ, thử thách. Sở dĩ có tấm lòng ấp ủ những sự thế tục và không có sự trông cậy vào Nước Thiên Đàng đời đời là vì trong một xó góc tấm lòng có sự không vâng phục. Chúng ta phải luôn vâng phục bằng tấm lòng run rẩy, lo sợ để đạt được sự cứu rỗi.
Đức Chúa Trời, là Đấng Chí Cao, đã mặc áo xác thịt mà đến, và làm gương vâng phục rồi. Ngài đã chỉ cho chúng ta phương pháp đạt được sự cứu rỗi bằng sự vâng phục cho đến chết của Ngài, như là tấm gương để chúng ta noi theo. Nên tôi khẩn thiết mong và nhắc nhở rằng cuộc sống đức tin của chúng ta cũng phải đạt được sự vâng phục của Đấng Christ.
Hãy ngẫm nghĩ xem chúng ta phải làm gì vào thời đại này, bằng cách xem lại công việc mà Đức Chúa Jêsus đã làm khi Ngài đến thế gian này 2000 năm trước.
“… thì Ngài (Đức Chúa Jêsus) lên một chiếc thuyền trong hai chiếc, là chiếc của Simôn… Khi Ngài phán xong thì biểu Simôn rằng: Hãy chèo ra ngoài sâu, thả lưới mà đánh cá. Simôn thưa rằng: Thưa thầy, chúng tôi đã làm suốt đêm không bắt được chi hết; dầu vậy, tôi cũng theo lời thầy mà thả lưới. Họ thả lưới xuống, được nhiều cá lắm, đến nỗi lưới phải đứt ra… chở cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi gần chìm. Simôn Phierơ thấy vậy, liền sấp mình xuống ngang đầu gối Đức Chúa Jêsus, mà thưa rằng: Lạy Chúa, xin ra khỏi tôi, vì tôi là người có tội. Số là, vì đánh cá dường ấy, nên Simôn cùng mọi người ở với mình đều thất kinh; Giacơ và Giăng con Xêđêbê, là những kẻ đồng bạn với Simôn cũng đồng một thể ấy. Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng Simôn rằng: Đừng sợ chi, từ nay trở đi, ngươi sẽ nên tay đánh lưới người. Đoạn, họ đem thuyền vào bờ, bỏ hết thảy mà theo Ngài.” Luca 5:1-11
Phierơ coi trọng và vâng phục theo lời phán của Đức Chúa Trời đến trong xác thịt, nên đã đạt được kết quả ân điển. “Hãy chèo ra ngoài sâu, thả lưới mà đánh cá” cũng là lời phán của Đức Chúa Trời. Dầu trong Cựu Ước, là bộ Kinh Thánh tồn tại vào thời ấy, không có lời phán của Đức Chúa Jêsus, nhưng Phierơ đã làm theo lời chính Đức Chúa Jêsus phán ra, nên đã nhận lãnh được nhiều phước lành.
Giả sử Phierơ đề cao trí thức và kinh nghiệm của bản thân mà không vâng phục lời Đức Chúa Trời, Đấng đến trong xác thịt và phán “Hãy thả lưới”. Xét về phần thể xác thì Phierơ, là người đánh cá, nên có kỹ năng và kinh nghiệm đánh cá nhiều hơn Đức Chúa Jêsus, là thợ mộc. Người đánh cá lão luyện Phierơ đã làm suốt đêm mà không bắt được chi hết. Đức Chúa Jêsus đã phán với Phierơ rằng “Hãy chèo ra ngoài sâu, thả lưới mà đánh cá”. Phierơ đã vâng phục lời phán của Đức Chúa Jêsus, chèo ra ngoài sâu và thả lưới, nên đã bắt được nhiều cá, đến nỗi lưới phải đứt ra.
Phải suy nghĩ xem những lịch sử đã qua dạy dỗ điều gì cho chúng ta, là những người đang sống ở thời đại này. Cũng giống như 2000 năm trước, vào thời đại này, Đức Chúa Trời Êlôhim đến trong xác thịt và đang ngự cùng chúng ta. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta chỉ chú ý tới những lời có trong Kinh Thánh mà lại phớt lờ trước những lời phán trực tiếp của Đức Chúa Trời Êlôhim với chúng ta.
Vì Đức Chúa Trời mặc áo xác thịt giống chúng ta, nên người ta thường xuyên nhầm lẫn. Nếu Đức Chúa Trời không mặc áo xác thịt, nhưng tồn tại ở dạng Thần Thánh không thấy được, và phán bằng giọng trang nghiêm rằng hãy thả lưới, thì ai cũng cảm thấy thần bí và nghĩ rằng đó là công việc của Đức Chúa Trời, nên sẽ vâng phục theo chớ không bất mãn. Chính Đức Chúa Trời ấy đang mặc áo xác thịt mà đến và phán lời giống như thế. Lời phán khi mặc áo xác thịt mà đến và lời phán khi tồn tại ở dạng Thần Thánh đều là lời phán của Đức Chúa Trời.
Nếu không vâng phục lời phán của Đức Chúa Trời, thì chẳng đạt được điều gì cả. Chính việc không vâng phục là hậu quả của việc từ bỏ đức tin. Nhờ vâng phục theo lời của Đức Chúa Trời, nên Phierơ, Giacơ và Giăng đã bắt được nhiều cá hơn số lượng cá bắt được bởi kỹ năng và kinh nghiệm cả đời của họ. Và một lần vâng phục ấy chính là động cơ quý báu để tất thảy họ quyết tâm đi theo đường của Đấng Christ.
Sự vâng phục thật quý báu và đẹp đẽ thay. Đức tin không vâng phục là đức tin trống rỗng. Dầu vậy, đôi khi chúng ta khó vâng phục theo lời Đức Chúa Trời. Ấy là bởi chúng ta đặt ý tưởng của chúng ta lên trước ý tưởng của Đức Chúa Trời. Hãy xem sách Êsai để tìm hiểu lý do tại sao chúng ta phải bỏ ý tưởng của chúng ta và vâng phục theo lời của Đức Chúa Trời.
“Hãy tìm kiếm Đức Giêhôva đang khi mình gặp được; hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần! Kẻ ác khá bỏ đường mình, người bất nghĩa khá bỏ các ý tưởng; hãy trở lại cùng Đức Giêhôva, Ngài sẽ thương xót cho, hãy đến cùng Đức Chúa Trời chúng ta, vì Ngài tha thứ dồi dào. Đức Giêhôva phán: Ý tưởng ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối ta. Vì các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng bấy nhiêu… thì lời nói của ta cũng vậy, đã ra từ miệng ta, thì chẳng trở về luống nhưng, mà chắc sẽ làm trọn điều ta muốn, thuận lợi công việc ta đã sai khiến nó.” Êsai 55:6-11
Đức Chúa Trời đang ở gần chúng ta. Đừng nên không vâng phục lời của Đức Chúa Trời mà đánh mất cơ hội vốn dành cho bản thân mình. Lý do không vâng phục được là vì chúng ta trông cậy vào ý tưởng, sự khôn ngoan và kinh nghiệm của bản thân mình.
Khi Đức Chúa Trời ban lời cho chúng ta, thì hãy bỏ ý tưởng chúng ta, và đừng do dự mà hãy làm theo như lời phán, giống như Phierơ. Nếu Phierơ cũng chèo ra ngoài sâu, thả lưới mà đánh cá, nhưng mấy ngày sau mới thả lưới thì có thể bắt được nhiều cá như thế không? Chính ngay lúc Đức Chúa Trời ban lời phán là lúc thả lưới và bắt cá. Khi Đức Chúa Trời ban lời dạy dỗ mà chúng ta chần chừ, do dự, thì ấy chẳng khác nào hành động không vâng phục.
Chúng ta phải làm theo những lời Đức Chúa Trời phán ngay lúc ấy. Nếu người nào không vâng phục theo lời Đức Chúa Trời ngay lúc Ngài phán, mà lại nói rằng mình đã hiểu lẽ thật về Đức Chúa Trời mặc áo xác thịt đến thế gian, thì ấy là bằng chứng cho biết người ấy không tin vào Đức Chúa Trời.
Có những người nghĩ rằng “vâng phục” có nghĩa là khiến ai đó ở trong thế bị động. Tuy nhiên, không phải như vậy. Đức Chúa Trời bảo chúng ta phải vâng phục Ngài là vì lợi ích phần linh hồn của chúng ta, vì muốn ban cho chúng ta sự cứu rỗi và tự do đời đời, chớ không phải là có ý muốn hạn chế và giam hãm chúng ta đâu. Đức Chúa Trời đã bỏ tất thảy vinh hiển Nước Thiên Đàng để cứu rỗi chúng ta rồi. Đức Chúa Trời đã không ngần ngại mặc áo tội nhân thấp hèn. Liệu Đức Chúa Trời đầy tình yêu thương ấy, yêu cầu chúng ta vâng phục để buộc chúng ta vào khung, áp chế và giam giữ chúng ta chăng?
Xét về phần linh hồn, loài người chúng ta như là những người đui mù. Chúng ta không hề biết trong ngày hôm nay sẽ xảy ra điều gì. Chúng ta không thể biết về việc sắp xảy ra đối với chúng ta, nhưng Đức Chúa Trời biết chúng ta từ trước muôn đời, và Ngài đang ban lời dạy dỗ từng giờ từng phút để dẫn dắt chúng ta vào thế giới vĩnh cửu.
Giả sử một người sáng mắt đang dẫn dắt một người đui mù. Khi người sáng mắt bảo người đui mù rằng “Giờ phải đi cẩn thận từng bước từng bước một vì phía trước có cầu thang”, thì người đui mù phải bước đi cẩn thận theo lời ấy. Nếu cứ bước đi bình thường thì sẽ vấp ngã và bị thương. Nếu người sáng mắt bảo rằng “Giờ hãy nhảy đi vì phía trước có con suối nhỏ”, thì ngay lúc ấy phải nhảy để vượt qua con suối. Chúng ta, là những người đui mù phần linh hồn, không phân biệt được phía trước chúng ta có trở ngại gì. Chỉ duy nhất Đức Chúa Trời bảo chúng ta con đường đi đến sự sống đời đời và sự cứu rỗi thông qua lời của Ngài. Người nào không theo lời phán của Ngài, sẽ bị thương, bị vấp ngã, bị bẻ gẫy.
Đức Chúa Trời yêu cầu chúng ta phải vâng phục Ngài, không phải là để ngăn cản tự do của chúng ta, mà là để dẫn dắt chúng ta về quê hương Thiên Đàng, bằng cách cho chúng ta biết phía trước có mối nguy hiểm nào, và dạy chúng ta phải làm gì. Bằng tấm lòng cảm tạ tình yêu thương ấy của Đức Chúa Trời, chúng ta phải vâng phục theo như lời Ngài phán bằng đức tin vững chắc, để trở về Nước Thiên Đàng.
“… Vậy, như bởi chỉ một tội mà sự đoán phạt rải khắp hết thảy mọi người thể nào, thì chỉ bởi một việc công bình mà sự xưng công bình, là sự ban sự sống, cũng rải khắp cho mọi người thể ấy. Vì, như bởi sự không vâng phục của một người mà mọi người khác đều thành ra kẻ có tội, thì cũng một lẽ ấy, bởi sự vâng phục của một người mà mọi người khác sẽ đều thành ra công bình.” Rôma 5:17-19
Bởi sự không vâng phục của một người, là Ađam, mà mọi người khác đều thành ra kẻ có tội, nhưng bởi sự vâng phục cho đến chết của một người, là Đức Chúa Jêsus Christ, là Đấng được biểu tượng bởi Ađam Sau Hết, nhiều người đã được trở nên công bình và nhận lãnh sự cứu rỗi. Vậy, có thể nói rằng sự vâng phục của mỗi một chúng ta chính là nguồn động lực của việc cứu sống nhiều người trên trái đất này. Sự vâng phục của một người có thể cứu sống nhiều người, sự không vâng phục của một người có thể làm bị thương nhiều linh hồn. Các anh chị muốn trở thành người nào?
Hãy ghi nhớ rằng mỗi một chúng ta là hạt giống đức tin quan trọng biết bao nhiêu, và tất thảy chúng ta đều phải vâng phục. Sự không vâng phục của một người có thể gây ra hậu qủa giống như sự không vâng phục của Ađam, sự vâng phục của một người có thể đem lại kết quả giống như sự vâng phục của Đức Chúa Jêsus Christ.
Chúng ta thấy được trong Kinh Thánh có rất nhiều người đã vâng phục theo như lời phán của Đức Chúa Trời và nhận được phước lành khi Ngài đến thế gian này trong xác thịt trong đó có những người đui mù được sáng mắt. Bất cứ lời gì mà Đức Chúa Trời Êlôhim, là Thánh Linh là Vợ Mới, phán ra đều là đường của sự cứu rỗi. Chúng ta phải tin điều đó và mỗi giây mỗi phút hằng vâng phục theo như lời phán của Đức Chúa Trời đang ở cùng với chúng ta, như thế chúng ta mới đồng đi cùng Đức Chúa Trời được.
Giả sử Đức Chúa Trời phán với chúng ta rằng “Từ giờ các ngươi hãy nhớ và làm cho ngày thứ tư nên thánh”. Nếu thực sự là người dân của Đức Chúa Trời, thì phải vâng phục theo như lời Ngài đã phán, phải giữ cho ngày thứ tư nên thánh, còn hơn là cứ cố chấp với thói quen từ trước đến giờ, phải không ạ?
Sứ đồ Phierơ nhận thật nhiều phước lành vì vâng phục Đức Chúa Trời trọn vẹn. Tuy nhiên, một lần sứ đồ Phierơ đã đề cao ý tưởng riêng của cá nhân mình, và phải đến khi được Đức Chúa Trời sửa chữa lỗi lầm, Phierơ mới thấu hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời. Được chép rằng:
“… Phierơ… bị ngất trí đi. Người thấy trời mở ra, và có vật chi giống một bức khăn lớn níu bốn chéo lên; giáng xuống và sa đến đất: Thấy trong đó có những thú bốn cẳng, đủ mọi loài, côn trùng bò trên đất, và chim trên trời. Lại có tiếng phán cùng người rằng: Hỡi Phierơ, hãy dậy, làm thịt và ăn. Song Phierơ thưa rằng: Lạy Chúa, chẳng vậy; vì tôi chẳng ăn giống gì dơ dáy chẳng sạch bao giờ. Tiếng đó lại phán cùng người lần thứ hai rằng: Phàm vật chi Đức Chúa Trời đã làm cho sạch, thì chớ cầm bằng dơ dáy. Lời đó lặp lại ba lần; rồi vật ấy liền bị thâu lên trên trời.” Công Vụ Các Sứ Đồ 10:9-16
Vào thời Cựu Ước, có sự phân biệt giữa thú vật tinh sạch và thú vật không tinh sạch, và người dân chỉ được phép ăn thú vật tinh sạch (Lêvi Ký chương 11). Vậy nên, Phierơ tuyệt đối không ăn thú vật không tinh sạch, nhưng Đức Chúa Trời đã phán hãy thay đổi thói quen ăn uống mà Phierơ đã theo mấy chục năm trời.
Tại đây, Phierơ đã đề cao ý tưởng của mình. Đức Chúa Trời phán rằng hãy ăn tất thảy các thú vật, vì chúng đều sạch, nhưng Phierơ lại nói rằng tôi chẳng thể ăn được, và chỉ cố chấp giữ lời mà Đức Chúa Trời đã phán trong quá khứ. Thông qua luật pháp về thức ăn ở nội dung này, Đức Chúa Trời cũng muốn dạy bảo Phierơ rằng không chỉ rao truyền Tin Lành cho riêng người Giuđa, mà phải rao truyền cho cả những người ngoại bang nữa. Đức Chúa Trời không chỉ làm cho thú vật không tinh sạch được tinh sạch mà còn làm tinh sạch những người ngoại bang được tượng trưng bởi thú vật không tinh sạch nữa. Vậy, Đức Chúa Trời tỏ cho Phierơ thấy sự hiện thấy này với ý bảo Phierơ trao cơ hội được nghe Tin Lành của sự cứu rỗi cho những người ngoại bang nữa.
Thông qua nội dung Kinh Thánh trên, chúng ta phải làm theo như ý muốn của Đức Chúa Trời bằng đức tin vâng phục, hơn là cố chấp với ý tưởng của chúng ta. Đấng phân biệt ra thú vật tinh sạch và thú vật không tinh sạch cũng là Đức Chúa Trời, Đấng phán rằng từ giờ hãy ăn tất thảy các loài thú vật cũng là Đức Chúa Trời. Luật pháp được lập nên bởi lời của Đức Chúa Trời. Cho nên, nếu Đức Chúa Trời, là Đấng ban luật pháp, phán rằng hãy ăn, thì chúng ta há chẳng phải ăn hay sao? Luật pháp đã như thầy giáo đặng dẫn chúng ta đến Đấng Christ (Galati 3:24), và là con đường để phát hiện ra Đức Chúa Trời. Lời của Đức Chúa Trời còn đi trước cả luật pháp.
Đích thân Đức Chúa Trời đã phán lời, vậy mà Phierơ lại cố chấp theo ý tưởng mình. Tuy nhiên, ngay sau đó, Phierơ đã hiểu ra ý muốn của Đức Chúa Trời, liền vâng phục theo như lời phán của Ngài mà truyền Tin Lành cho gia đình người ngoại bang Cọtnây (Công Vụ Các Sứ Đồ 10:17-48), và cùng với các sứ đồ qui định ra luật về thức ăn của thời đại Tân Ước, rằng có thể ăn được tất thảy mọi thứ trừ của cúng thần tượng, huyết, thú vật chết ngột (Công Vụ Các Sứ Đồ 15:7-29).
Hãy ghi nhớ một sự thật rằng các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì ý tưởng Đức Chúa Trời cao hơn ý tưởng chúng ta cũng bấy nhiêu, và chúng ta phải vâng phục theo ý tưởng như trời cao của Đức Chúa Trời. “Hãy chèo ra ngoài sâu, thả lưới mà đánh cá”, lời phán này có vẻ đơn giản và bình thường, dù vậy, Phierơ đã vâng phục theo như lời phán ấy, và đã đạt được kết quả đầy ân huệ. Chúng ta không nên quên điều này.
Mong tất thảy chúng ta vâng theo một cách ân huệ ý muốn của Đức Chúa Trời Êlôhim, là Thánh Linh và Vợ Mới, Đấng đi trước dẫn dắt chúng ta. Đức Chúa Trời Cha Mẹ đã dặn chúng ta, con cái của Ngài, rằng: “Hãy sốt sắng rao truyền Tin Lành tới xứ Samari, cho đến cùng trái đất, và hãy làm chứng về ta.” Người dân của Đức Chúa Trời phải làm chứng về Đức Giêhôva vào thời đại Đức Cha, và làm chứng về Đức Chúa Jêsus vào thời đại Đức Con. Còn chúng ta phải làm chứng về Đức Chúa Trời Êlôhim vào thời đại này. Mong tất thảy người nhà Siôn đều được mặc lấy sự trọn vẹn bởi sự vâng phục, dẫn dắt cả thế giới vào đường cứu rỗi, và đi vào Nước Thiên Đàng vĩnh cửu.