Công việc giá trị nhất, phước lành đặc biệt nhất

Choi Su Hyeon từ Austin Town, Ấn Độ

11,154 lượt xem

Giống như hầu hết những người cha Hàn Quốc khác, cuộc sống thường nhật của tôi là những chuỗi ngày khi đi làm thì nhìn thấy những ngôi sao buổi sớm mai, khi tan sở cũng xem thấy những ngôi sao trên bầu trời đêm. Khi ấy, tôi đã không biết thế giới các ngôi sao xa xôi kia là gì và nó đang chiếu sáng vì ai. Với tư cách là gia trưởng của một gia đình, mục đích của tôi chỉ là làm sao cho gia đình mình có cuộc sống thoải mái, mà không phiền lụy đến người khác. Với tấm lòng đó, tôi đã chăm chỉ làm việc suốt cả năm mà không có một ngày nghỉ nào.

Tôi nghĩ rằng cuộc sống này không phải là tất cả khi tôi được nghe vợ tôi nói về lẽ thật. Thật ra, lúc đầu tôi đã không tin được. Vì hầu như đó là những lời mà tôi chưa bao giờ được nghe từ nhà thờ Thiên Chúa giáo mà tôi đã đi hơn 30 năm qua, dầu đức tin của tôi không vững chắc lắm.

Dường như cả chị vợ tôi cũng đang học Kinh Thánh ở Hội Thánh cùng với vợ tôi. Ngày nào chị ấy cũng cho tôi biết những gì mình đã được học, và hỏi tôi thấy thế nào. Trong khi nghe những chuyện liên quan đến Đức Chúa Trời và Kinh Thánh, cùng đối thoại với chị ấy, tấm lòng tôi được thấm đượm bởi sự cảm động về lẽ thật như thể áo bị ướt dần dần bởi cơn mưa phùn vậy.

Mấy tháng sau, vợ tôi nói với đôi mắt sáng ngời.

“Giờ đang là thời gian có kỳ lễ trọng thể của Đức Chúa Trời. Ngài sẽ ban cho phước lành nhiều hơn nữa trong suốt kỳ lễ.”

Ngày hôm sau trước khi đi làm, tôi đã theo vợ tôi đến dự lễ thờ phượng buổi sớm mai. Tôi thật ngạc nhiên vì ngay cả buổi sáng sớm mà lại có nhiều người đến để dâng lễ thờ phượng như vậy, tôi lại càng bất ngờ hơn nữa vì hình ảnh của họ đều thân thiện như một vậy. Ngày hôm đó, tôi đã nhận phước lành được trở thành con trai của Đức Chúa Trời bằng tấm lòng vui mừng trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Tôi thấy lòng mình thật bình an như thể cuối cùng mình cũng đã làm được việc mà lẽ ra phải làm sớm hơn. Có lẽ vì linh hồn tôi đã được sanh lại mới. Không khí buổi sáng mà tôi đã hít thở mỗi ngày trở nên khác hơn vào ngày hôm đó.

Nếu tấm lòng bình an như thế cứ được tiếp tục trải ra mỗi ngày thì thật tốt biết bao, nhưng sau đó vì công việc bận rộn nên suốt mấy tháng tôi đã không đến Hội Thánh được. Tuy nhiên, mọi việc đã không giải quyết được theo như ý mình muốn dù tôi đã làm việc thật vất vả, cuối cùng công việc đã bị ngưng lại. Trong tình huống khiến chúng tôi phải lo lắng về việc làm sao để xoay xở cuộc sống, vợ tôi chắc hẳn sẽ lo lắng cho tương lai nhiều như tôi, thế nhưng cô ấy đã không hề tỏ ra lo lắng. Ngược lại, cô ấy còn an ủi tôi rằng “Mọi việc sẽ diễn ra theo ý muốn của Đức Chúa Trời.”

Năm đó, tôi đã giữ gìn ngày Sabát cuối cùng của năm và cũng giữ ngày Sabát đầu tiên trong năm mới cùng với gia đình mình, tôi đã hiểu ra ý muốn của Đức Chúa Trời chứa đựng trong mọi việc mà tôi đã trải qua theo như lời vợ tôi. Dần dần tôi đã phân biệt được lẽ thật và sự giả dối, và nhận thức được rằng phước lành của thế giới linh hồn không thể trông thấy bằng mắt thường, thật lớn biết bao. Giống như lời “Dân Ta bị diệt vì cớ thiếu sự thông biết.”, Đức Chúa Trời đã ban sự cứu rỗi mà không đòi giá cho linh hồn vô thức, là kẻ không bao giờ có thể đi vào Nước Thiên Đàng vì không có tri thức hiểu biết Đức Chúa Trời. Điều đó chẳng đáng dâng cảm tạ lên Đức Chúa Trời hay sao?

Trải qua một tháng kể từ khi giữ gìn điều răn trong niềm vui mừng và sự thán phục, càng dò xem lời, tấm lòng tôi càng nhận thức được một điều. Đó là Đức Chúa Trời đã khẩn thiết tìm kiếm ai đó. Khi hiểu ra được ai đó chính là các con cái đã bị mất ở Nước Thiên Đàng giống như tôi, tôi đã suy nghĩ đến việc truyền đạo một cách nghiêm túc.

Trước đây, tôi từng sống như thể bị mắc kẹt vào công việc và bị rượt đuổi ngày qua ngày mà không biết rằng mình từ đâu đến và đang đi về đâu. Nhưng giờ tôi có sự trông cậy Nước Thiên Đàng và cảm thấy được sự bình an trong Siôn, ấy là nhờ ai đó đã rao truyền lẽ thật cho gia đình chúng tôi. Thật sự sau khi tiếp nhận lẽ thật, cuộc sống của tôi biến thành bản thân sự hạnh phúc. Mỗi khi nghĩ đến Nước Thiên Đàng vĩnh cửu đã được sắm sẵn cho mình, tôi đã không hề ghen tỵ với bất cứ thứ gì của thế gian. Tôi muốn trở thành người giúp việc mà Đức Chúa Trời mong muốn, chia sẻ với những người khác về sự phước lành và ân huệ ấy.

Đó là việc nếu chỉ giữ trong lòng thôi thì không hoàn thành được, nên tôi đã lấy hết dũng khí và tiến bước trong công việc Tin Lành. Tuy nhiên, mỗi khi tôi dạn dĩ rao truyền lời một cách không ngại ngùng thì tôi chỉ nhận lại được sự mắng mỏ và phản bác của họ. Dù đã có thể hơi nản lòng và cảm thấy thất vọng, nhưng Đức Chúa Trời đã ban cho một trái mà tôi không thể nào quên được, như thể Ngài muốn ban thêm sức cho tôi.

Anh ấy là người đang làm việc cùng ngành nghề với tôi, trong khi tôi đang quyết tâm truyền lẽ thật cho anh, đúng lúc anh cũng có một số thắc mắc và đã mở lời với tôi. Anh ấy nói rằng con trai mình theo bạn đi đến hội thánh, đã hỏi rằng “Người ta gọi Đức Chúa Trời là Cha. Vậy không có Đức Chúa Trời Mẹ sao?” Anh ấy hỏi tôi rằng “Liệu có Đức Chúa Trời Mẹ trong Kinh Thánh không?” Giây phút ấy, tim tôi đập loạn xạ.

“Thì ra linh hồn đang tìm kiếm lẽ thật không phải ở đâu xa!”

Tôi đã chắc chắn rằng người này chính là người nhà Nước Thiên Đàng mà tôi đang tìm kiếm bấy lâu.

Anh em ấy đến Siôn và dò xem lời Kinh Thánh, rồi tiếp nhận lẽ thật, mấy ngày sau, con trai của anh em ấy, là người đã hỏi về Đức Chúa Trời Mẹ, cũng được dẫn dắt vào lòng Đức Chúa Trời. Kể từ đó, có được lòng tin chắc chắn, anh em ấy thắng được sự phản đối của gia đình một cách khôn ngoan và giữ được đức tin vững vàng.

Sứ mạng Tin Lành mà Đức Chúa Trời đã giao phó chính là vì sự cứu rỗi chúng ta. Điều đó là sự thật. Dù ấy là con đường Tin Lành mà tôi đã bắt đầu làm với sự nhận thức rằng mình sẽ làm vì Đức Chúa Trời, nhưng ngược lại, được ẩn giấu trong quá trình ấy là sự nhận thức quý báu đã dành cho tôi. Thật ra, ngay cả trước khi đi truyền đạo thì tôi cũng đã hiểu biết được rằng anh chị em trong Siôn là gia đình được kết nối cùng nhau bởi thịt và huyết của Cha Mẹ Trên Trời, và việc tìm kiếm anh chị em bị mất là công việc vui mừng. Thế nhưng, sự nhận thức vốn chỉ ở trong đầu cuối cùng đã chạm đến tấm lòng tôi khi tôi rao truyền lời và được kết trái. Sau khi chính bản thân mình trải nghiệm sự từng mỗi một linh hồn được tìm kiếm bằng sự nỗ lực của những người nhà đi trước đã theo gương của Đức Chúa Trời, cùng với sự hy sinh của Đức Chúa Trời mà không thể diễn tả hết bằng lời, tôi cảm thấy anh chị em ở bên cạnh mình thật quý giá biết bao.

Sứ mạng “Mười talâng” Mẹ đã ban cho mấy năm trước đã khiến tôi có một mục tiêu mới trong công việc Tin Lành. Thật ra, lúc đầu tôi đã lo lắng rằng “Một người thiếu sót như mình làm sao có thể làm thức tỉnh được mười người đây?” Tuy nhiên, thời gian trôi qua trong khi thường xuyên nghe được tin tức của những người nhà đã hoàn thành được mục tiêu, tôi nhận ra rằng suy nghĩ của mình là sai lầm. Đối với tôi và các người nhà thực hiện được mục tiêu đã có sự khác biệt rõ ràng. Dù tôi đang nỗ lực trong công việc Tin Lành giống như họ, nhưng tôi đã bị kéo lại bởi nhiều việc vô nghĩa hoặc bị lưỡng lự giữa những việc vô ích với phước lành phần linh hồn, trong khi những người nhà đó một mực trông cậy vào Nước Thiên Đàng và đã cố gắng hết sức cho sứ mạng được ban cho. Chính vì tấm lòng và tư thế khác nhau, nên kết quả cũng khác nhau.

Hối tiếc về thời gian đã qua, tôi khởi động lại tấm lòng mình, tôi hạ quyết tâm rằng “Cuộc đời chỉ được ban cho một lần, tôi sẽ sống vì Tin Lành.” Khi bỏ đi những tham vọng hư vô trong đầu mình và cố gắng để được sanh lại mới với đức tin lớn hơn, Đức Chúa Trời đã dẫn dắt gia đình chúng tôi đến nơi có cơ hội nhận được phước lành lớn lao đang chờ đón. Đó là Ấn Độ, nơi có khoảng 1.600 ngôn ngữ, hàng trăm triệu thần, và 1 tỷ 200 triệu người sinh sống.

Cũng có nhiều khi tôi thấy thật khó khăn ở nơi khác biệt về ngôn ngữ và tín ngưỡng quá sâu nặng nên hầu như người ta quay lưng với lẽ thật. Khi trông thấy những người không nhận thức được như vậy, nhiều lần tôi thấy thật đau lòng đến nỗi nước mắt cứ trào ra. Có lần cả gia đình tôi đã khổ sở vì căn bệnh sốt xuất huyết. Tuy nhiên, trong tất cả mọi việc đó, chúng tôi đều dâng lên cảm tạ. Vừa đi theo con đường mà Đức Chúa Trời Cha Mẹ đã đi trước, tôi đã có thể đong đếm được từng chút một rằng Đức Chúa Trời Cha Mẹ đã vì tôi mà chịu vất vả và đau lòng biết bao, Ngài đã yêu thương tôi biết bao. Khi nghĩ đến Đức Chúa Trời Cha Mẹ ngay cả bây giờ vẫn đang hy sinh vì vô số con cái trên toàn thế giới, lại vừa dẫn dắt lịch sử cứu rỗi, tôi chỉ biết thốt lên câu “Cảm tạ Cha Mẹ.” mà thôi.

Số năm làm công việc Tin Lành càng tăng thì tôi càng hiểu ra một cách sâu sắc trong tấm lòng mình rằng việc đồng đi với Đức Chúa Trời và theo sau gương của Ngài chính là hạnh phúc lớn nhất và công việc giá trị nhất. Niềm vui có được mỗi khi tôi tích lũy được talâng Tin Lành là phước lành mà không thể có được ở bất cứ nơi nào trên thế gian. Tôi là gì mà Đức Chúa Trời đã ban cho ân huệ lớn lao như thế?

Năm mới 2015 của hy vọng đã được mở ra. Tôi cầu mong năm nay nhất định sẽ thực hiện được mong ước của Cha, là Đấng đang đếm từng đầu ngón tay mong chờ ngày tương phùng với con cái của Ngài, và mong ước của Mẹ, là Đấng đang cầu nguyện khẩn thiết mỗi ngày để tìm kiếm thêm hơn dù là một linh hồn. Để ngày ấy đến một cách nhanh chóng, tôi sẽ lấp đầy những phần thiếu sót, sửa lại những gì mình đang làm sai, và hết lòng rao truyền Tin Lành.

Hôm qua, hôm nay, và ngày nào cũng thế, tôi thương nhớ Cha Mẹ. Tôi xin dâng lời chào đến Ngài đồng một tấm lòng với các người nhà Nước Thiên Đàng trên toàn thế giới.

“Thưa Cha Mẹ, chúng con xin cảm tạ Ngài. Chúng con yêu Cha Mẹ!”