Sứ mệnh phước lành – trao tình yêu thương

Cha Yeong Ye từ Gimhae, Hàn Quốc

12,239 lượt xem

Khi tôi còn nhỏ, hàng xóm cạnh nhà tôi là đôi vợ chồng mục sư của một hội thánh nhỏ. Vốn được sinh ra là một Cơ Đốc nhân và mẹ tôi là bạn thân của họ, nên dĩ nhiên tôi đã bắt đầu đến hội thánh ấy.

Đối với tôi, chủ nhật là ngày bận rộn nhất trong tuần. Vì tôi giữ nhiều chức vụ khác nhau trong hội thánh như trưởng nhóm thanh niên, quản lý chung, thư ký, v.v., nên tôi đến hội thánh từ sáng sớm và về nhà vào khoảng nửa đêm trong tình trạng hoàn toàn kiệt sức. Mặc dù vậy, tôi vẫn thích được làm việc cho hội thánh. Ước muốn duy nhất của tôi là yêu mến Đức Chúa Trời và làm công việc của Ngài suốt đời.

Hội thánh ấy thường xuyên xảy ra chuyện. Các thành viên có nhiều xích mích với nhau và mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng. Cuối cùng, hội thánh chia thành hai nhóm khi tôi còn là sinh viên đại học. Tôi tự hỏi tại sao những việc như vậy cứ diễn ra trong hội thánh nơi Đức Chúa Trời ngụ – Đấng là tình yêu thương, nên tôi cảm nhận rằng dù Đức Chúa Trời đầy dẫy khắp vũ trụ nhưng Ngài sẽ không ngụ ở đó. Sau rất nhiều trăn trở, tôi quyết định không đến hội thánh ấy nữa.

Khi mất đi điểm tựa quan trọng trong đời, tôi không còn thấy điều gì thú vị hay vui vẻ nữa; mọi thứ với tôi dường như vô nghĩa. Dù đã rời khỏi hội thánh, nhưng tôi luôn nhớ đến Đức Chúa Trời và mong ước được quay trở lại khoảng thời gian khi tôi chỉ tìm kiếm Ngài. Vì vậy, tôi đã theo các bạn đến hội thánh Tin lành nổi tiếng của họ và tham gia chương trình giáo dục dành cho thánh đồ trong suốt 2 năm. Tuy vậy, tôi vẫn thấy trống trải.

Sau khi kết hôn, tôi đi hội thánh Tin lành mà gia đình chồng tôi đang đi theo. Suốt một thời gian dài thay đổi từ hội thánh này sang hội thánh khác, tôi đã kết luận rằng mình sẽ chỉ cố gắng tìm kiếm Đức Chúa Trời bất kể là ở hội thánh nào đi nữa. Có vẻ như tôi đã tìm thấy sự ổn định, nhưng thực chất nó giống như một sự cam chịu hơn.

Gần ngày dự sinh con thứ hai của mình, tôi đã gặp một số thánh đồ của Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Khi họ nói với tôi về ngày Sabát, tôi thấy buồn trước thực tế rằng mình thậm chí còn không biết lẽ thật cơ bản nhất — ngày thờ phượng trong Kinh Thánh — mặc dù tôi đã đọc Kinh Thánh nhiều lần và cũng đã đọc qua tất cả các loại sách của Cơ đốc giáo. Ngay sau đó, tôi đến thư viện và tìm kiếm trong tất cả các sách lịch sử để xác minh xem ngày Sabát có phải là ngày thờ phượng thực sự không. Hóa ra không chỉ ngày Sabát mà mọi điều khác họ đã dạy tôi đều là sự thật. Tất cả các sách lịch sử Hội thánh cũng như Kinh Thánh đều chứng minh rằng ngày Sabát là ngày thờ phượng đúng đắn và việc giữ ngày Sabát là ý muốn của Đức Chúa Trời. Vậy là theo sự dạy dỗ tuyệt đối của Kinh Thánh, tôi đã tiếp nhận lẽ thật.

Tại Hội Thánh của Đức Chúa Trời, tôi đã gặp được Đức Chúa Trời chân thật mà tôi hằng sốt sắng kiếm tìm. Lẽ thật đã quá rõ ràng và hoàn hảo. Tuy nhiên, dù đã tiếp nhận lẽ thật nhưng từ trong tấm lòng, tôi lại thấy thật khó chấp nhận. Tôi cảm thấy vô cùng bức bối tựa như có gì đó mắc kẹt trong lòng. Khi học lời Kinh Thánh về việc phải rao truyềnTin Lành, tôi cũng bắt đầu truyền đạo. Ban ngày tôi rao truyền lời, còn buổi tối thì học Kinh Thánh. Tôi ngày càng hiểu biết Kinh Thánh nhiều hơn và cũng đã kết trái. Một người bạn của tôi đã tiếp nhận lẽ thật và rất nhanh chóng trở thành người truyền đạo, còn một chị em trái khác thì đã khóc rất nhiều khi nhận ra Mẹ. Mặc dù vậy, sự hiểu biết của tôi vẫn còn thiếu thốn.

Đến một ngày, khi tôi ngồi cạnh một chị em đang chia sẻ Kinh Thánh, từng lời của chị em đã khắc sâu vào lòng tôi. Cảm giác tựa như những viên ngọc trai nằm rải rác đâu đó giờ đã được xâu chuỗi lại với nhau để tạo nên một chiếc vòng cổ tuyệt đẹp. Chính giây phút ấy, tôi nhận ra rằng tất cả những lời tiên tri và ví dụ trong Kinh Thánh, từ trang đầu tiên đến trang cuối cùng, rốt cuộc đều tập trung vào “Đức Chúa Trời Mẹ” – Đấng trọng tâm của lẽ thật; Ngài thực sự là Mẹ của linh hồn tôi, chứ không chỉ là Đức Chúa Trời xa cách.

Tôi bắt đầu rao truyền lẽ thật cho bất cứ ai tôi gặp mà không chút do dự. Tôi không thể hạnh phúc hơn. Tôi đã từng mơ ước được cống hiến cuộc đời mình cho công việc của Đức Chúa Trời. Giấc mơ của tôi cuối cùng đã thành hiện thực! Sau khi chuyển từ Seoul đến Gimhae, tôi đã được ban phước kết rất nhiều trái, và tôi cũng được giao cho sứ mệnh Tin Lành. Dường như không có việc gì trên thế gian này vui vẻ và hứng thú hơn việc rao truyền lời.

Tôi là kiểu người rất thận trọng và luôn rạch ròi những gì mình muốn và những gì mình không muốn. Với công việc Tin Lành cũng vậy, tôi lập kế hoạch chi tiết và tuân theo kế hoạch của mình một cách có hệ thống. Khi mọi việc được hoàn thành bởi sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy tuyệt vời khó tả. Nhưng đồng thời, tôi cũng thấy thất vọng về những người không làm việc theo cách ấy. Tôi nghĩ rằng không có gì là quá khó nếu chúng ta biết đặt mục tiêu hoặc lên kế hoạch một cách khôn ngoan và làm theo. Vì vậy, mỗi khi trông thấy anh chị em gặp khó khăn hay không có kết quả Tin Lành tốt, tôi không thể hiểu tại sao họ không làm giống như tôi. Tôi cũng không hiểu được rằng các anh chị em đang phải chịu những vất vả và nghĩ rằng họ đang phải trải qua những đau khổ không đáng có vì đã không cư xử khéo léo. Vì lo lắng cho các anh chị em và nghĩ rằng nên giúp đỡ, tôi đã cố gắng khuyên nhủ hơn là thấu hiểu tấm lòng của anh chị em đang đau đớn như thế nào. Tôi thực sự không biết rằng những điều mình nói sẽ làm tổn thương các anh chị em.

Cùng lúc ấy, một khó khăn bất ngờ ập đến với tôi. Tôi từng coi đau khổ là việc chỉ xảy ra với ai đó. Vì vậy, khi nó xảy đến với tôi, tôi mới thấy rằng mọi kế hoạch và suy nghĩ lôgic của mình đều là vô nghĩa. Không có ai khác để tôi trông cậy ngoài Đức Chúa Trời Mẹ. Tôi khẩn thiết cầu nguyện rằng tôi sẽ vượt qua được khoảng thời gian khó khăn, đau đớn mà tự tôi không thể gánh vác được.

Nếu Mẹ không đỡ tôi dậy, linh hồn tôi có lẽ đã sụp đổ từ khi ấy. Nhưng khi tôi gắng sức và kiên trì, chỉ tìm kiếm Mẹ, thì những u ám đã rời đi và nhường chỗ cho ngày nắng đến.

Sau khi chính tôi trải qua khó khăn thì cách tôi nhìn các anh chị em cũng khác trước. Thực tế là càng trải qua nỗi đau thì chúng ta lại càng trưởng thành hơn. Tôi đã nhận ra sự thật quan trọng rằng: Đau khổ mà chúng ta gặp phải trên con đường đức tin không phải do người khác gây ra và cũng không phải là điều mà chúng ta nên lằm bằm; đó là thập tự giá mà chúng ta phải mang theo để linh hồn chúng ta được sinh lại mới trọn vẹn. Nếu tôi không trải qua những khó khăn ấy thì tôi sẽ không thể hiểu được tại sao các anh chị em lại phải vất vả như vậy và họ đã phải chịu đau đớn đến thế nào.

Khi tôi bỏ đi tất cả những tiêu chuẩn sai lầm của mình thì tôi đã thấy các người nhà trông thật đáng yêu và sáng láng. Các anh chị em mà tôi từng cảm thấy thất vọng vì nghĩ rằng họ không đủ khôn ngoan để làm việc đúng đắn lại là những người thực sự khôn ngoan và mạnh mẽ hơn bất cứ ai khác. Là các con trai, con gái của Đức Chúa Trời, họ đã trung thành vác thập tự giá của mình và âm thầm vượt qua mọi gian khổ. Mỗi anh chị em đều thực sự tuyệt vời và sáng láng, đặc biệt là khi họ đang dốc sức cứu rỗi từng linh hồn, lo lắng cho người khác mà không bận tâm đến khó khăn của chính mình. Thực sự không có lý do gì để ghét bỏ các anh chị em ấy. Thế nhưng, vì tôi đã nhìn bằng định kiến nên tôi không thể yêu thương hết lòng.

Và rồi, một vài thử thách khác lại đến cứ như thể chúng đang cố trêu ngươi tôi. Dù biết rằng khi thời gian qua đi thì những khó khăn mình phải đối mặt sẽ chẳng là gì cả, nhưng tấm lòng yếu đuối của tôi đã quá tổn thương. Lòng tôi ngập tràn nỗi buồn và tôi đã khóc rất nhiều. Khi tôi trở nên kiệt sức và chán nản thì cảm giác như có ai đó đang thì thầm với tôi, “Bạn đã làm đủ rồi, tốt hơn hết là bây giờ bạn hãy từ bỏ sứ mệnh Tin Lành đi.”

Sau những lời cầu nguyện tha thiết, tôi đã nhận được câu trả lời từ Mẹ rằng: “Hãy rao truyền Tin Lành.” Mẹ luôn vỗ về linh hồn tôi để tôi không lạc lối trên con đường đức tin. Ngay cả trong hoàn cảnh hoàn toàn vô vọng, tôi vẫn nghĩ đến Mẹ và quyết tâm không bao giờ bỏ cuộc. Khi ấy, tôi thấy cánh cửa đã được mở ra. Tôi sốc lại tinh thần và bắt đầu truyền đạo trở lại. Mẹ đã ôm ấp tấm lòng mệt mỏi của tôi bằng niềm vui cứu sống những linh hồn.

Có một cụ bà sống ở gần Siôn. Khi còn trẻ, bà đã theo nhiều hội thánh khác nhau nhưng vẫn không thể tìm thấy lẽ thật ở bất cứ đâu nên bà đã không đến nhà thờ nữa. Bà làm tôi nhớ đến bản thân mình trước khi biết đến lẽ thật. Bà đã đọc Kinh Thánh nhiều đến mức mỗi khi chúng tôi dạy bà điều gì thì bà đều biết câu Kinh Thánh nào có nội dung đó. Thế nhưng, do khó tiếp nhận Đức Chúa Trời mặc xác thịt đã đến trái đất một lần nữa nên bà không muốn nghe và thậm chí còn cố tránh mặt chúng tôi. Mỗi khi đi ngang qua nhà bà, lòng tôi lại nhói đau.

Vài tháng sau, vào ngày Sabát, tôi rời nhà sớm hơn thường lệ một chút. Đang đi trên đường, tôi chợt nhớ đến bà. Đúng lúc ấy, tôi thấy bà cũng đang đi về phía tôi. Việc gặp bà làm tôi vui đến mức tôi chạy đến ôm bà và nói lời chào. Tuy có chút ngại ngùng, nhưng có lẽ bà cũng rất vui khi gặp tôi nên bà đáp lời cùng với một nụ cười:

“Tôi có làm được gì cho cô đâu. Sao cô lại quý tôi thế?”

Tôi nghĩ rằng tình yêu thương đích thực không mong được đền đáp. Thực ra, bản thân tôi cũng không thể hiểu tại sao tôi lại có thể yêu mến một người mà ngay cả tên và khuôn mặt tôi cũng không biết nếu không vì lẽ thật. Điều duy nhất tôi biết chắc chắn đó là tình yêu thương của Mẹ đã khắc sâu trong lòng tôi và khiến cho một người từng ích kỷ và toan tính như tôi có thể yêu thương người khác.

Kể từ khi nhận ra tình yêu của Mẹ, bà đã trở thành một người hoàn toàn khác. Bà lo lắng đến mức rớt nước mắt mà nói rằng: “Tôi không thể làm được gì cho Đức Chúa Trời cả. Tôi muốn nhanh chóng trưởng thành hơn để có thể báo đáp dù chỉ một chút ân điển của Đức Chúa Trời, nhưng bạn bè của tôi sẽ không nghe tôi đâu.” Tôi tin rằng sự chân thành của bà sẽ sớm làm cho hoa sự sống nở trong lòng mọi người.

Đứa con thứ hai mà ở trong bụng khi tôi tiếp nhận lẽ thật, giờ đã trở thành một học sinh trung học. Ngay cả khi con tôi đã đủ trưởng thành để chăm sóc cho tôi mà linh hồn của tôi vẫn còn non nớt và khiến cho Mẹ lo lắng. Thế nhưng, Mẹ lại mỉm cười với tôi và thậm chí còn cảm ơn tôi chỉ vì tôi vẫn còn đang ở trong vòng tay của Mẹ.

Đôi khi tôi suy nghĩ về lý do tại sao Đức Chúa Trời đã dẫn dắt tôi đến Siôn mặc dù tôi rất yếu đuối và đầy lỗi lầm, và tại sao Đức Chúa Trời đã luôn gìn giữ tôi ở lại trong lẽ thật. Tôi tin rằng đó là vì tấm lòng yêu thương của tôi vẫn còn thiếu thốn và tôi cần bù đắp những thiếu sót ấy.

Tôi từng nghĩ rằng mình biết và nhận ra Đức Chúa Trời Mẹ mà Kinh Thánh làm chứng. Thế nhưng, tôi không hiểu rằng Mẹ chính là tình yêu thương dù tôi biết Mẹ là trọng tâm của lẽ thật. Tại sao tôi vẫn không thể yêu thương các anh chị em cùng chung huyết thống với mình, cho dù tôi đã nhận được rất nhiều tình yêu thương từ Mẹ?

Tất cả chúng ta đều là các chi trong cùng một thể của Đấng Christ, nhưng chúng ta có những vai trò và phước lành khác nhau. Vậy mà, tôi chỉ muốn các anh chị em khác suy nghĩ và hành động giống mình. Điều đó giống như tay nói với chân rằng, “Tại sao bạn không làm như tôi làm?” Tôi đã sai lầm khi coi ý nghĩ hẹp hòi của mình là ý muốn của Đức Chúa Trời. Tôi những tưởng đã yêu thương các anh chị em mà không nhận ra rằng tình yêu thương thực sự là chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau.

Khi nghĩ về điều này thì hóa ra vận động Tin Lành kết trái mười ta lâng chính là sứ mệnh mà Đức Chúa Trời đã ban cho để giúp chúng ta có thể yêu thương nhau nhiều hơn. Chỉ tình yêu thương mới có thể hoàn thành được sứ mệnh ấy. Vậy mà, tôi chỉ tập trung vào kết quả nhìn thấy được mà bỏ qua tình yêu thương, nên tôi cảm thấy xấu hổ vì đã cố chấp làm theo cách của mình.

Có một số anh chị em vẫn cảm thấy khó làm thân với tôi. Tôi nghĩ lý do là phát âm của tôi khác mọi người và nhìn tôi không giống một người dễ gần. Tuy nhiên, trên thực tế, điều đó rất có thể do tôi vẫn chưa sinh lại mới hoàn toàn. Thực tế này khiến lòng tôi đau nhói. Bây giờ tôi đang sốt sắng cầu nguyện rằng tôi sẽ trở nên một người tràn đầy tình yêu thương, không tì vết và không sai sót trong mắt Đức Chúa Trời.

Tôi muốn dành tình yêu thương cho những người tôi gặp, bất kể thời gian và địa điểm, giống như khi tôi rao truyền Tin Lành. Vì vậy, tôi luôn cố gắng truyền đạo, ngay cả khi tôi đến cửa hàng để mua một thứ gì đó. Gần đây tôi đã rao truyền lời cho một thợ làm tóc tại cửa tiệm làm đẹp mà tôi từng ghé qua. Chị ấy rất ngạc nhiên khi nghe lẽ thật, nhưng tấm lòng đã bị đóng lại sau khi nghe một số lời vu khống vô căn cứ chống lại Hội thánh. Nhưng giờ đây, chị thích đến Siôn và còn nói rằng “Hội Thánh của Đức Chúa Trời thật ấm áp và tràn đầy tình yêu thương”. Có một chị em khác mà tôi đã truyền đạo cho. Trước khi kết hôn, chị đã tin vào Đức Chúa Trời, nhưng sau khi kết hôn, chị lại bắt đầu đi theo truyền thống thờ cúng tổ tiên của gia đình chồng. Do đó, chị cứ chần chừ không đến với Đức Chúa Trời. Thế nhưng, bây giờ chị đã mạnh dạn làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ rằng linh hồn của chị hẳn đã cảm nhận được tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Vì tình yêu thương có thể làm được mọi điều, và sự chân thành luôn luôn có tác dụng.

Thưa Mẹ, con xin cảm tạ Ngài! Cảm tạ Mẹ đã cho con biết tình yêu thương là gì và đã tin tưởng giao cho con sứ mệnh yêu thương mọi người trong muôn vàn sứ mệnh trên thế gian này. Con tin chắc rằng sẽ đến một ngày tình yêu thương của Mẹ nảy mầm và nở hoa trong tấm lòng mỗi người nếu như con tôn kính Mẹ, yêu thương các anh chị em và dành tình yêu thương cho mọi người. Cho tới khi ngày ấy đến, con sẽ tiếp tục trao gửi yêu thương, như Mẹ của chúng con, Đấng chính là tình yêu thương.